Bản thân tôi từng học văn dưới mái trường miền Bắc trong suốt những năm chiến tranh khốc liệt. Vậy mà tôi luôn háo hức chờ đến giờ văn để nghe thầy cô giảng giải, ngâm ngợi những bài thơ, câu thơ, những câu văn đầy chất thơ, chất nhạc…

Chuyện học văn xưa
Giờ học văn ngày xưa là đi vào cả một thế giới ngôn từ nhiều lớp nghĩa, nhiều khi ngỡ chừng bí ẩn nhưng thầy cô say mê, tận tình giảng giải, bóc từng lớp vỏ ngữ nghĩa cho học sinh như đang nuốt lấy từng lời, từng ý. Biết bao niềm vui, niềm hạnh phúc khi học sinh hiểu được, cảm nhận được một từ ngữ, một hình ảnh thơ, một chi tiết trong câu văn… Ví dụ về cô kỹ sư cùng đoàn khách lên đỉnh cao Sa Pa trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long); khi gặp anh thanh niên lặng thầm làm việc một mình nơi đây đã đem lòng cảm mến. Chi tiết cô “quên” chiếc khăn tay và được người thanh niên trả lại có rất nhiều ý nghĩa. Cô muốn gửi lại một tình cảm “lặng thầm”, một hơi ấm nhỏ nhoi gói vào chiếc khăn tay giả vờ bỏ quên cho anh thanh niên sống cô đơn trên đỉnh núi mây mù bao phủ. Tiếc thay, anh thanh niên quá thật thà, không hiểu được “ngầm ý” của cô kỹ sư nên sốt sắng chạy theo trả lại! Đó cũng là nét đẹp của nhân vật anh thanh niên: hồn nhiên, yêu đời, thật thà như đếm. Đúng là “Ai cũng hiểu, chỉ một người không hiểu”! Hoặc hai câu thơ trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều”. Câu thơ có sức gợi, sức khái quát sâu sắc. “Cánh đồng quê” thân yêu như một hình tượng sống, như một thân thể con người bị tàn phá; quằn quại trong khổ đau… Nói đến “trời chiều” là nói về quãng thời gian bình an nhưng nay màu xanh của quê hương bị dây thép gai “đâm nát” một cách hung bạo, đau đớn.
Mặt khác, hồi đó quy định bắt buộc học sinh phải soạn bài trước khi đến lớp. Sách giáo khoa rất hiếm, phải chạy ngược chạy xuôi mượn sách, mượn được đem về đọc ngấu nghiến rồi soạn bài theo câu hỏi. Nào là tìm đại ý (nếu đoạn trích), tìm chủ đề; nào là tìm ý nghĩa của từng chi tiết, hình ảnh… Khi thầy cô dạy, chúng tôi có dịp phát biểu nhờ soạn bài kỹ từng chi tiết. Sau đó, đối chiếu với bài giảng, xem mình hiểu, cảm nhận đến đâu, đúng ý nào, chưa đúng ý nào… Vì phương tiện giải trí chỉ có cuốn sách giáo khoa “làm bạn” tâm tình! Do đó, chúng tôi cứ háo hức, trông chờ đến giờ văn để nghe thầy cô phân tích, cảm nhận cái hay cái đẹp của tác phẩm. Nhờ có tâm thế học như vậy, kiến thức mới được khắc sâu, nhớ lâu đến tận bây giờ!
Dễ hiểu thôi, vì những năm tháng ấy hầu như ít có phương tiện giải trí; sách, báo rất hiếm, hạn chế, chỉ có ở thư viện phục vụ giáo viên nhà trường. Trong hoàn cảnh đó, bao tâm trí, bao lòng say mê văn chương, chúng tôi dành cho cuốn sách giáo khoa có tên gọi là “Trích giảng văn học”.
Chuyện học văn ngày nay
Tâm thế học văn của học sinh ngày nay khác xa thời “bao cấp” vì những lý do sau đây: các loại sách giáo khoa, sách tham khảo… tràn ngập, đầy đủ. Học sinh hầu như không phải soạn bài, nếu phân công theo nhóm làm bài thì các em cùng nhau tìm lời giải, bài soạn trên mạng rồi đưa xuống, sao chép, “chắp nhặt dông dài” thành bài soạn của nhóm rồi đem trình chiếu. Kiến thức này là của người khác, đâu phải các em “lao tâm khổ tứ” nghĩ ra, làm ra nên khi học xong bài thì kiến thức cũng trôi tuột; chữ trên mạng thì trả cho mạng là xong. Không còn cảnh những ánh mắt háo hức, chờ đợi lời thầy cô giảng mà thay vào đó là sự thờ ơ, có thể nói là vô cảm; không có hứng thú học vì các em biết trước cả rồi; thầy cô giảng giải, nêu câu hỏi, đặt vấn đề cũng thế thôi! Kết cục nhân vật này phải như này, nhân vật kia phải thế kia, không thể khác đi đâu được. Hoặc câu thơ, đoạn thơ nói lên ý nào thì luôn có “khuôn” sẵn như vậy; vượt ra ngoài “khuôn” là sai.
Về phần giáo viên, thầy cô cũng biết vậy nhưng không thể làm khác hơn vì thời lượng bài giảng chỉ có 45 phút hoặc 90 phút trên lớp. Nhóm nào cũng trả lời đúng, tất nhiên học sinh đều đạt điểm cao nhưng hầu hết là “điểm ảo”, không thực chất về kiến thức thu nhận được. Cái “lợi” cho học sinh ở đây là gì? Là khỏi phải vất vả, trằn trọc suy nghĩ, tìm cho ra các ý mà câu hỏi đặt ra.
Việc học văn không bao giờ “dễ dàng” như bây giờ. Theo đó, học văn bây giờ đạt điểm 8, điểm 9 không khó nhưng thực chất thì cần phải xem lại. Tác hại trước mắt và lâu dài thì không hề nhỏ của việc học văn hiện nay. Đó là cách viết văn, cách làm bài văn, học sinh không tự làm được mà phải nhờ vào hướng dẫn của giáo viên, của trí tuệ nhân tạo. Trước một vấn đề đặt ra trong tác phẩm, các em không tự giải quyết, tự tìm hiểu, tự phân tích một cách thấu đáo mà luôn phụ thuộc vào sách giải…
Trước thực trạng trên, giáo viên dạy văn cần không ngừng làm mới mình; có sự đột phá trong cách dạy, cách cho học sinh tiếp cận tác phẩm. Phải có sự sáng tạo đột phá, không theo lối mòn mà mình tự tìm ra một lối đi mới trong cách dạy văn. Nhiều trường học đã sân khấu hóa tác phẩm bằng cách phân vai, dùng lời thoại, điệu bộ… để khắc họa tính cách nhân vật. Hoặc viết bài ca vọng cổ, lồng ghép bài học vào các làn điệu, ca lên cho học sinh nghe và dễ nhớ hơn. Nhưng đặc trưng của môn văn là dạy học sinh làm văn, dạy các em tìm hiểu, diễn đạt bằng ngôn ngữ một vấn đề. Các biện pháp kia chỉ là hỗ trợ bổ sung, tăng thêm kênh truyền thụ kiến thức.
Khi còn dạy học, khi giảng xong bài “Vũ Như Tô” (Nguyễn Huy Tưởng), tôi củng cố bài bằng một từ khóa gồm 11 chữ cái, gồm: Â (1), B (1), G (1), H (3), I (2), N (2), P (1), T (2), U (1), Ơ (1), S (1). Nội dung của từ khóa là một thành ngữ, nói lên sự tiếc nuối khi có tài nhưng không thực hiện được ước mơ. Cả lớp sôi động hẳn lên, cùng ra sức trao đổi, tìm từ để tôi viết lên khung chữ gồm 16 ô kẻ sẵn. Em nào cũng đoán đó là từ này, đó là từ kia… Cuối cùng, khi tìm ra được câu “SINH BẤT PHÙNG THỜI” thì cả lớp vỡ òa trong vui sướng. Kiến thức đó làm các em nhớ mãi vì cùng nhau động não, cùng nhau tìm hiểu, phản biện để tìm ra từ khóa. Hoặc khi dạy xong bài “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân), khi chốt lại bài, tôi nêu câu hỏi: “Theo em, nhân vật Huấn Cao cho viên quản ngục chữ gì? Hãy bình luận ý nghĩa của chữ ấy”. Cả lớp cùng động não, cùng tìm xem chữ gì thật sâu sắc của người xưa, của thánh hiền để cảm nhận, phân tích. Các em tìm ra những chữ “đắc địa” như chữ “Nhân”, chữ “Lễ”, chữ “Tín”, chữ “Nghĩa”… rồi cùng cảm nhận, phân tích ý nghĩa.
Những câu hỏi này không có trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn mà tự giáo viên tìm tòi, suy nghĩ để làm sao khơi gợi, bắt trúng tâm lý thích thể hiện, thích tìm hiểu, làm chủ kiến thức của học sinh. Những bài giảng theo sách, nói theo sách không còn hấp dẫn học sinh mà giáo viên phải tự làm mới mình; nói theo cách riêng, độc đáo nhưng vẫn thể hiện được nội dung của bài, không thoát ly bài giảng.
“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, tất cả tùy thuộc vào năng lực chuyên môn cũng như năng lực sư phạm của người dạy văn để vượt qua những thử thách, khó khăn này.
Lê Lam Hồng
Bình luận (0)