Giữa “cơn lốc” sĩ số HS liên tục gia tăng trong vài năm trở lại đây khiến các trường tiểu học luôn trong trạng thái “khó thở” vì quá tải thì tại TP.HCM vẫn có những trường tiểu học mà sĩ số toàn trường không bằng phân nửa HS khối 1 của những trường tiểu học (TH) “khổng lồ”.
Sĩ số HS/lớp chuẩn không cần chỉnh
Có thể nói Trường TH Trần Quang Khải (Q.1) là một trong số ít “trường hạt tiêu” của TP.HCM với tổng số 382 HS. Trường có 12 lớp với 6 lớp khối 1, 2; 6 lớp khối 3, 4, 5 và 22 GV.
Thầy Hồ Quang Tuấn – Hiệu trưởng nhà trường – cho biết, sĩ số HS toàn trường dao động từ 22-38 em/lớp. Tại cơ sở 1 (đường Trần Quang Khải) là nơi học của khối 3, 4, 5, diện tích mỗi phòng rộng 50m2 nên sĩ số mỗi lớp khoảng 30-38 em/lớp. Tại cơ sở 2 (đường Võ Thị Sáu), do diện tích phòng học khoảng 30m2 nên sĩ số chỉ 22 em/lớp và được nhà trường ưu tiên cho HS khối 1, 2 học.
Với sĩ số lý tưởng này, thầy Tuấn cho rằng, phụ huynh, nhất là HS “chỉ có lời, không có chuyện lỗ”: “Sĩ số lớp học ít, hẳn nhiên các em HS là người được hưởng nhiều ưu đãi nhất. 100% HS được học 2 buổi và tham gia vào các CLB kỹ năng. Thay vì bù đầu cho gần 60 HS như nhiều trường TH thì với sĩ số 22-38 em/lớp, GV có thời gian để chăm chút từng em từ kiến thức đến kỹ năng, thể lực, nhân cách. Sự tương tác giữa GV, HS và phụ huynh cũng được duy trì thường xuyên và liên tục, ở mức độ mật thiết, khắng khít”.
Tại Q.Tân Bình, dù phần nhiều các trường TH quá tải nhưng vẫn cò một số trường chỉ có vài trăm HS. Cụ thể như TH Chi Lăng, TH Bạch Đằng, TH Sơn Can dao động từ khoảng 400-600 HS/trường, nhiều hơn chút có Trường TH Tân Sơn Nhất với hơn 800 HS.
Thầy Trần Thế Đức – Hiệu trưởng Trường TH Tân Sơn Nhất – chia sẻ, trung bình mỗi lớp trong trường có từ 35-38 HS. Sĩ số ít nên 100% HS được học bán trú. Phụ huynh cũng yên tâm gửi gắm khi con em mình không phải “chen chúc” trong lớp học…
Tại Q.2, ông Nguyễn Phúc Huy Tùng – Trưởng phòng GD-ĐT quận – cho hay, nhiều năm nay Q.2 luôn trong tình trạng “áp lực” về sĩ số, đa phần các trường TH đều “đầy” HS trừ Trường TH An Bình do mới xây dựng được 3 năm đồng thời nằm ở cuối Q.2, giáp ranh Q.9, Q.Thủ Đức gây khó khăn trong việc di chuyển. Năm học 2018-2019, trường này có 445 HS/16 lớp.
Cô Phạm Thị Thùy Trang – Hiệu trưởng Trường TH An Bình – thừa nhận, sĩ số ít, nhà trường thật sự “nhẹ gánh”, nhất là khâu quản lý. Nhà trường dồn sức để đầu tư cho các lớp. Ở trường, wifi được bắt vào tận lớp học. Các phòng chức năng đều được hoạt động hết công suất. HS đều được học bán trú, tham gia vào ít nhất một CLB trong 15 CLB của trường.
Nói về “mặt được” của việc ít HS, cô Trang khẳng định: “Mỗi ngày, nhà trường đều biết có bao nhiêu HS nóng, sốt, bao nhiêu em cần phải ăn cháo trong bữa bán trú. Nhà trường và GV chủ nhiệm biết rõ về đặc điểm của phụ huynh để có cách phối hợp GD HS hiệu quả nhất”.
Khi số lớp ít, người quản lý dễ dàng nắm bắt tâm tư, nguyện vọng từng GV, không thả nổi chất lượng GD cho GV.
Với sĩ số 29 HS, lớp 1.2 được coi là lớp đông của Trường TH An Bình (trung bình 25 HS/lớp). Cô Quan Tố Liên (GV chủ nhiệm lớp 1.2) cho biết, đây là con số trong mơ của đồng nghiệp ở các trường khác. “Sĩ số không nhiều nên GV chủ nhiệm nắm rõ hoàn cảnh của từng em và có sự hỗ trợ kịp thời. Ví dụ, với phụ huynh làm công nhân, tăng ca nhiều, không bảo ban các con học nhiều thì GV phải kèm cặp kiến thức liên tục cho các con. Ngược lại, HS được ba mẹ kèm cặp nhiều thì GV lại phải nâng cao kiến thức cho các con”, cô Liên chia sẻ.
Trên hết, lớp ít, GV không phải mất nhiều thời gian trong việc “ổn định trật tự”. Thời gian đó được đầu tư nhiều hơn vào cho bài giảng trên lớp, HS được tiếp cận nhiều phương pháp học tập hay.
Những áp lực… vô hình
Ở những ngôi trường “hạt tiêu” này không phải là không có khó khăn.
“HS ít nên nhân lực cho các hoạt động, phong trào có giới hạn, khó huy động. Đơn của như tổ chức giải TDTT, trường đông HS dễ tìm ra các hạt nhân năng khiếu, còn trường ít, quanh đi quẩn lại cũng chỉ có vậy”, thầy Tuấn – Hiệu trưởng Trường TH Trần Quang Khải tâm tư.
Sở dĩ sĩ số Trường TH Trần Quang Khải trong phạm vi “lý tưởng”, theo thầy Tuấn là do trên địa bàn P.Tân Định (Q.1) có tới 3 trường TH. HS trong trường đa phần đều ở cạnh trường. Đây cũng là một trong những “nỗi khổ” của trường. Các em ở cạnh nhà nên chỉ 60% HS ở bán trú. Còn lại các em về nhà ăn trưa, rồi tự túc đi lại. Việc này rèn cho các em tính tự giác nhưng lại gây khó khăn cho trường trong việc quản lý, theo dõi HS”.
Sĩ số HS ít tương đương với phụ huynh ít, sẽ khiến công tác xã hội hóa của nhà trường gặp khó. Đặc biệt là thu nhập buổi 2 cho GV khá hạn hẹp.
Cô Trang – Hiệu trưởng Trường TH An Bình (Q.2) – cho rằng: “Mỗi lớp chỉ có khoảng 25 HS, bên cạnh áp lực về sự kỳ vọng lớn của phụ huynh, các thầy cô lại có áp lực làm sao sát sao, săn sóc từng HS, làm sao HS của mình phải thật giỏi. Còn người quản lý lại có áp lực trong việc sát sao từng GV, nắm bắt kịp thời những mong muốn của GV. Đau đầu nhất là phải… xã hội hóa được cho trường, tăng thu nhập cho GV”.
Còn về phía GV, cô Liên cho hay, lớp càng ít HS, GV càng “phải chịu trách nhiệm cao nhất có thể”. Giả sử, lớp 60 em, GV có thể không sâu sát được từng em. Điều này có thể xuê xoa. Nhưng lớp có hai mấy em mà GV không hiểu được từng em là điều không thể bỏ qua.
Chính vì vậy, cô Liên liên tục phải đặt ra cho mình những áp lực về việc nâng cao chất lượng giảng dạy, làm mới các phương pháp dạy học để HS được hưởng quyền lợi nhiều nhất…
Tại Q.4 cũng có một trường TH có sĩ số “chuẩn không cần chỉnh” – đó là Trường TH Nguyễn Huệ 1. Trường nằm trong hẻm trên đường Nguyễn Khoái. Năm học này, trường có 13 lớp với 403 HS, 24 CB-GV-NV.
Do chỉ có 10 phòng học nên nhà trường chỉ tổ chức được 7 lớp bán trú, còn lại 6 lớp 1 buổi, sĩ số trung bình mỗi lớp khoảng 30 em.
Cô Đặng Thị Lệ – Phó Hiệu trưởng nhà trường – chia sẻ, số lớp ít, HS mỗi lớp không quá đông nên GV có rất nhiều thuận lợi trong giảng dạy, quan tâm đến từng em.
Dù có những thuận lợi nhất định nhưng đặc thù trường nhỏ, ít HS nên trường cũng không tránh được khó khăn. Đơn cử như công tác xã hội hóa, việc vận động phụ huynh HS tham gia hỗ trợ xây dựng công trình, trang thiết bị phục vụ dạy học ở trường đông HS thì khá dễ dàng, ngược lại ở trường nhỏ lại là cả một quá trình.
“Nhiều năm liền, trường luôn mong muốn có được các trang thiết bị hiện đại phục vụ dạy học tin học, tiếng Anh, âm nhạc cho HS nhưng vẫn chưa hoàn thành. Các phòng chức năng phục vụ dạy học tin học, tiếng Anh, nghệ thuật, TDTT không có. Năm vừa rồi, trường mới trang bị được 30 máy tính phục vụ dạy tin học cho HS nhưng do không có phòng nên nhà trường buộc phải lấy phòng GV, còn GV phải họp trên phòng HS. Phòng hiệu phó, nhiều năm liền vẫn phải ghép chung với phòng y tế”, cô Lệ thông tin.
Theo cô Lệ, có thể do cơ sở vật chất nhỏ hẹp, còn khó khăn nên tâm lý phụ huynh cũng không muốn gửi con vào trường dù xung quanh rất nhiều chung cư. Năm học 2017-2018, trường tuyển 2 lớp 1; năm học này, quận đưa chỉ tiêu tuyển 140 HS lớp 1 nhưng trường chỉ tuyển được 99 em/3 lớp.
Về đội ngũ, đến thời điểm hiện tại, trường vẫn thiếu GV bộ môn âm nhạc, mỹ thuật, tin học, tiếng Anh. Mặc dù năm nào cũng tuyển nhưng không có hồ sơ đăng ký.
Đóng ở địa bàn nhiều dân cư lao động nghèo, HS trong trường có hoàn cảnh khó khăn – chiếm 30%. Nhiều em được ông bà nuôi vì bố mẹ chia tay hoặc vướng tệ nạn. Do đó việc gia đình quan tâm đến học tập của các em đôi khi chưa đầy đủ. Xác định những khó khăn này, thầy cô ngoài giảng dạy còn quan tâm, động viên chia sẻ với HS nhiều về mặt tinh thần để các em đến trường đầy đủ hơn.
Y.Hoa – N.Trinh
Cô và trò lớp 3.1 Trường TH Trần Quang Khải (Q.1). Ảnh: Y.Hoa
Giờ học của lớp 1.2 (lớp đông HS nhất – 29 HS) Trường TH An Bình (Q.2). Ảnh: Y.Hoa
GV nghèo cưu mang HS khó
“Năm học nào GV cũng đóng góp ủng hộ để trao học bổng cho ít nhất 1 HS có hoàn cảnh khó khăn của mỗi lớp. Thậm chí, có những GV, năm nào cũng duy trì hoạt động từ thiện. Như cô Nguyễn Thị Ngọc Mỹ, chủ nhiệm lớp 1/2, gắn bó với trường hơn 20 năm nhưng không năm nào cô không tặng sách vở, quần áo cho HS có hoàn cảnh khó khăn. Giá trị mỗi suất học bổng tuy không cao nhưng các em có thêm nguồn động viên tinh thần để học tập tốt hơn”, cô Đặng Thị Lệ – Phó Hiệu trưởng Trường TH Nguyễn Huệ 1 (Q.4) – thông tin.
N.Trinh

Bình luận (0)