Dù đã được Nhà nước quan tâm ưu đãi về đời sống, nhưng hiện nay giáo viên ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa vẫn đang phải chịu rất nhiều thiệt thòi so với các đồng nghiệp miền xuôi. Chính vì vậy, bên cạnh khao khát về việc được cải thiện đời sống tinh thần, các thầy cô cũng bày tỏ nhiều băn khoăn về chính sách thu hút, đãi ngộ đối với những người đang ngày đêm “cõng” chữ lên non.
Không dám mơ chuyện chuyển vùng.
Trong các chuyến đi công tác vùng cao, chúng tôi đã gặp rất nhiều thầy cô giáo là người miền xuôi, hoặc người nơi khác lên dạy học ở những bản làng xa tít tắp. Theo qui định của Nhà nước, thời hạn luân chuyển nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ( người ta gọi tắt là chuyển vùng) ở những nơi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn là 3 năm đối với nữ và 5 năm đối với nam. Nhưng trên thực tế có lẽ ít người được chuyển vùng đúng như qui định nói trên, nếu như không muốn nói là họ đang phải nằm vùng… vô thời hạn.
Ở trường Tiểu học và THCS xã Bản Khoang ( huyện Sa Pa- Lào Cai), đa phần giáo viên đều có thời gian công tác từ 9, 10 năm trở lên như thầy Lượng, thầy Hoà, cô Liên, cô Lý…Gắn bó với đồng bào, với học sinh lâu quá rồi nên dường như không ai trong số họ còn nghĩ tới việc chuyển vùng. Thầy Hoà (quê Hà Nam ) trầm ngâm, nếu ai cũng muốn về xuôi thì bọn trẻ ở đây sẽ thiệt thòi lắm. Do cuộc sống của người dân còn nghèo, nên họ vẫn coi trọng việc no cái bụng hơn là no con chữ. Ngày mùa trẻ con cũng phải ra đồng giúp bố mẹ làm nương rẫy, có em nghỉ học hàng tuần không hề có lý do. Vậy là các thầy cô giáo lại phải chia nhau đến từng nhà vận động học sinh trở lại lớp. ở vùng cao heo hút này, các thầy cô vừa là giáo viên, đồng thời kiêm luôn cán bộ làm công tác dân vận. Rất vất vả, nhưng rồi cũng phải quen. Thầy giáo Vân (quê Thái Nguyên) cho biết, vợ chồng thầy đã gắn bó với học sinh trường THCS Bản Khoang 6 năm nay. Trước đó, được hưởng mức lương thu hút bằng 70% lương chính, cộng với thâm niên công tác nên mỗi tháng thầy cũng có vài triệu đồng. Giờ đã nằm ngoài thời hạn 5 năm đối với nam giáo viên, thu nhập của thầy còn khoảng 2,4 triệu đồng/tháng. Số tiền này phải ăn tiêu dè xẻn mới đủ sống tùng tiệm, bởi giá cả sinh hoạt ở đây rất đắt đỏ, thậm chí còn đắt hơn nhiều so với ở dưới xuôi.
Ông Nguyễn Hữu Đức, Phó phòng GD&ĐT huyện Sa Pa cho hay, tỉ lệ giáo viên là người các huyện khác trong tỉnh và các tỉnh khác đến Sa Pa dạy học chiếm khoảng 70%. Việc luân chuyển giáo viên nơi đây có những cái khó, trong sự khó khăn chung của cả nước, nhưng cũng có những cái khó riêng ở địa phương. Vì là một huyện vùng núi, nên cho dù có luân chuyển thế nào chăng nữa thì cũng chỉ là chuyển họ từ xã vùng núi này sang xã vùng cao khác. Huyện có các trường Mầm non, Tiểu học, THCS đặt tại Thị trấn Sa Pa, song cũng không thể đáp ứng nhu cầu muốn chuyền công tác của tất cả giáo viên trên địa bàn. Chỉ những trường hợp đặc biệt như thầy giáo Lượng (chồng cô Mười – Hiệu trưởng trường tiểu học Bản Khoang đã bị thiệt mạng do lũ cuốn trong ngày khai giảng) được phòng GD&ĐT ưu ái, chuyển công tác từ trường tiểu học Bản Khoang ra dạy tại trường tiểu học Lao Chải (Thị trấn Sa Pa) để thầy có thêm điều kiện chăm sóc con nhỏ.
Và những trăn trở về chính sách đãi ngộ.
Hiện nay, ở những xã vùng 2, vùng 3 thu nhập của giáo viên trông chờ chủ yếu vào tiền lương của Nhà nước, không có thêm bất kỳ một khoản thu nào khác. Việc dạy thêm cho học sinh đều do giáo viên tự nguyện, thậm chí vừa vận động các em đi học, vừa phải đến phụ đạo tận nhà. Cô Mỹ Dung- giáo viên trường THCS Nà Bó ( Mai Sơn, Sơn La) kể, thấy các thầy cô đi lại vất vả, xa xôi hàng chục cây số tới trường dạy thêm, Ban Giám hiệu có đề xuất thu mỗi em học sinh 2 ngàn đồng/tháng để hỗ trợ tiền xăng xe cho giáo viên đứng lớp. Tiền thì chưa thu được, nhưng nghe tin phải đóng góp đã có những học sinh muốn bỏ học. Cô Dung ngậm ngùi, 2 ngàn đồng là số tiền không đáng kể với một gia đình bình thường, nhưng với những hộ quá nghèo thì đây cũng là một khoản phải lo.
Được biết, Mai Sơn có 11 xã thuộc diện khó khăn (vùng 2) và 4 xã đặc biệt khó khăn (vùng 3). Nhưng giống như nhiều địa phương vùng núi khác đang thực hiện Nghị định 61/2006/ NĐ– CP (ngày 20-6-2006), chỉ những giáo viên đang đứng lớp ở các xã vùng 3 mới được hưởng chế độ phụ cấp thu hút đặc biệt bằng 70% lương hiện hành. Theo ông Nguyễn Việt Cường, Trưởng phòng GD&ĐT huyện, đa số giáo viên đang dạy học ở những xã vùng 2, vùng 3 ở Mai Sơn là người nơi khác đến. Trên thực tế điều kiện kinh tế ở xã vùng 2 cũng chẳng hơn gì xã vùng 3, trong khi trường lớp còn xập xệ, nhà ở cho giáo viên chưa đủ thì riêng giáo viên vùng 2 lại không nhận được tiền trợ cấp ưu đãi. Điều này vô hình trung đã gây tâm lý chán nản, đôi khi là bi quan trong đội ngũ giáo viên đang công tác tại các điểm lẻ. ấy là chưa kể họ thuộc diện tăng cường từ 3- 5 năm, nhưng đã quá thời hạn trên mà vẫn chưa thấy động tĩnh gì về ngày về vùng thấp. Vì vậy, trong số rất nhiều yếu tố góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vùng cao, ông Cường kiến nghị cần phải quan tâm hơn nữa đến đời sống của giáo viên vùng 2, để họ yên tâm bám trường, bám lớp, “gieo” được nhiều con chữ trên non.
Thu Hương
Theo Giáo dục & Đào tạo
Bình luận (0)