Sau sự xuất hiện khác thường của Từ Hải và sau cuộc gặp gỡ của hai người xa lạ mà lại tri âm, Thúy Kiều về sống chung với Từ. Nửa năm sống chung ấy có ba điều cần bàn:
Điều thứ nhất: Từ chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh: Ngỏ lời nói với băng nhân/ Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn. Điều gì đáng chú ý ở hai câu thơ này? Như đã bàn, Từ xuất hiện khác thường, dung mạo tài năng, ý chí khác thường hẳn việc làm cũng khác người. Việc Từ chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh cứ như trở bàn tay, chóng vánh, rõ ràng, êm xuôi. Đời Kiều hai lần ở lầu xanh, mỗi lần người yêu Kiều đều phải chuộc Kiều khỏi chốn bùn nhơ ấy. Lần trước với Thúc sinh lời thề trước khi đưa Kiều rời xa chốn ấy cũng dài dòng lắm ngôn từ to tát: Đường xa chớ ngại Ngô Lào/ Trăm điều hãy cứ trông vào một ta/ Đã gần chi có điều xa/ Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều. Cách đón Kiều ra đi cũng nửa kín nửa hở: Rước nàng hãy tạm giấu nàng một nơi, rồi Thúc lại liệu bài đối phó: Một bài chiến, một bài hòa. Chiến là kiện tụng ra pháp đình mượn tay thầy thợ; hòa đã có kẻ dò xét thương lượng: Mượn người dò la…
Cùng một việc như nhau, mục đích công việc như nhau một đằng – Từ Hải – gọn trơn, dễ dàng, minh bạch; một bên – Thúc sinh – lòng thòng, hai mặt, kín kín, hở hở. Không trách gì Thúc bởi chàng chỉ là thư sinh lắm tiền còn Từ là một anh hùng hảo hán!
Điều thứ hai: Từ Hải mua lại Thúy Kiều từ tay bọn buôn người liền ngay sau đấy là lo nơi ăn chốn ở tuyệt vời cho Kiều. Buồng riêng giữa chốn thanh nhàn/ Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên – Giường thất bảo là giường quý, giường có gắn trân châu báu vật: Pha lê, xà cừ, châu, ngọc, vàng bạc, đồi mồi; màn bát tiên là màn có thêu tám ông tiên: Chung Ly Quyền, Lã Động Tân, Tào Quốc Cữu, Hà Tiên Cô, Trương Quả Lão, Hàm Tương Tử, Lý Thiết Quái.
Ta sẽ hiểu đó là cái giường, cái màn quý, có gì cần bàn? Nhớ lại ngày Thúy Kiều bị đốt nhà, bị bắt cóc về nhà Hoạn bà (mẹ Hoạn thư). Bà vợ ông tể tướng cậy quyền uy của chồng đã la mắng, vu oan giá họa cho Kiều. Mụ ấy cũng ngồi trên chiếc giường, giường thất bảo! Ngước trông tòa rộng dãy dài / Thiên quan trủng tể, có bài treo trên / Ban ngày sáp thắp hai bên / Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà.
Không biết Nguyễn Du có dụng ý gì báo trước một sự đổi đời hay không, xem kỹ văn mạch thấy rõ: Chiếc giường ấy xưa là bà tể tướng ngồi, nay Thúy Kiều cũng có trong tay. Sự đổi đời ấy có phải là điềm báo trước cho việc Thúy Kiều đền ơn báo oán hay cụ Nguyễn viết từ vô thức?
Điều thứ ba: Kiều sống với Từ nửa năm êm thắm, nồng đượm, cuộc tình duyên của trai anh hùng với gái thuyền quyên. Họ thỏa lòng ước nguyện (phỉ nguyền sánh phượng) và đẹp đôi như cưỡi rồng bay lên (đẹp duyên cưỡi rồng).
Bỗng: Nửa năm hương lửa đương nồng/ Trượng phu thoắt đá động lòng bốn phương. Hồi Thúc sinh về ở với Hoạn thư cũng có phút động lòng ấy: Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ/ Một màu quan tái bốn mùa gió trăng. Cái cảnh giang hồ, lại một nơi xa xôi bốn mùa có gió, có trăng kể cũng hấp dẫn. Nhưng đấy là cái hấp dẫn của kẻ ăn chơi, hưởng lạc thú. Còn Từ bỗng động lòng bốn phương (kẻ trượng phu chí để ở bốn phương trời) nghe như con rồng đang chuyển mình cất cánh. Nội dung của sự động lòng ấy cũng là của kẻ trượng phu, anh hùng hảo hán. Nơi bốn phương trời kẻ trượng phu đều phải đảm trách. Điều đặc biệt nữa là vừa mới động lòng Từ đã ra đi: Thanh gươm, yên ngựa lên đường thẳng rong. Thúy Kiều chỉ biết trông với trời biển mênh mông và lúc ấy chàng đã ra đi vạn dặm: Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi…
Còn Từ ra đi để làm gì, Nguyễn Du vẫn để một dấu hỏi trong lòng bạn đọc.
Lê XUân Lít

Bình luận (0)