Trước những mảnh đời sa ngã, lầm lỡ vì ma túy, họ sẽ làm gì khi lương tâm thức tỉnh? Con đường trở lại hòa nhập với cộng đồng của họ sẽ ra sao khi phía trước còn biết bao gian nan trở ngại?… Đó là những điều trăn trở của ông Cao Xuân Dớn – Trưởng ban Bảo vệ khu dân cư số 4, phường Quang Trung, thành phố Hải Dương.
ông Cao Xuân Dớn |
Từ nỗi lo về ma túy
Gặp ông trong một chiều cuối thu, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng bởi nhìn ông trẻ hơn rất nhiều so với cái tuổi 75 vốn được coi “xưa nay hiếm”. Sinh ra và lớn lên tại xã Lãnh Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, một miền quê giàu truyền thống đấu tranh cách mạng.
Đầu những năm 1950, như bao thế hệ thanh niên thời bấy giờ, Cao Xuân Dớn theo tiếng gọi của tổ quốc, của cách mạng hăng hái lên đường tham gia kháng chiến chống Pháp tại chiến dịch Điện Biên Phủ. Những tháng ngày sống và chiến đấu nơi chiến trường đầy bom rơi đạn nổ, hằng ngày phải đối mặt giữa sự sống và cái chết đã rèn cho ông ý chí kiên cường cùng nghị lực sống, dám nghĩ dám làm, không quản gian khổ hy sinh cống hiến tuổi thanh xuân cho tổ quốc.
Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, năm 1960, ông về công tác trong một xí nghiệp ở tỉnh Hải Dương. Nghĩa đất, tình người xứ Đông đã ăn sâu, thấm nhuần vào từng giọt máu, thớ thịt và ông đã quyết định gắn trọn đời mình với mảnh đất này.
Năm 1982, ông Dớn được nghỉ chế độ. “Già rồi nhưng chẳng nghỉ ngơi, tham gia việc nước việc phường cho vui”, chính là lý do mà ông đưa ra để làm bí thư chi bộ khu dân cư số 4 tiếp tục được phục vụ cộng đồng dân cư. Thời gian này, đời sống kinh tế trên địa bàn phường Quang Trung ngày càng phát triển mạnh. Các khu vui chơi giải trí, nhà nghỉ, khách sạn… đua nhau mọc lên như nấm.
Nhưng đi kèm với nó là tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm xuất hiện, phát triển mạnh đã gây ảnh hưởng xấu đến bộ phận thanh, thiếu niên ở đây. Cả khu phố có hơn 300 gia đình thì gần 40 người có tiền án, tiền sự, nghiện hút. Chính quyền cơ sở cũng đã vào cuộc với nhiều biện pháp nhưng chỉ giảm thiểu được phần nào. Cuộc sống của bà con lối phố sớm tối bất an.
Với cương vị của một bí thư chi bộ khu dân cư, hằng ngày ông Dớn đau đớn khi phải chứng kiến cảnh những thanh niên ưu tú trong khu dân cư lần lượt rơi vào vòng xoáy của “nàng tiên nâu”. Ông tâm sự: “Mỗi ngày đi làm, tôi lại không khỏi băn khoăn lo sợ và bàng hoàng khi nghĩ đến một ngày các con tôi mà rơi vào nghiện ngập, thì không biết tôi sẽ sống thế nào”.
Trước tình hình đó, để bảo vệ khu dân cư số 4 khỏi cơn lốc của ma túy và cũng để bảo vệ các con mình, ông quyết định bước vào trận chiến với ma túy. Bước vào trận chiến mới với muôn vàn khó khăn thử thách, ông luôn trăn trở một điều là làm sao để cảm hóa và giáo dục được những con người lầm lỗi giúp họ trở lại hòa nhập cộng đồng. Vì những con người đã một thời sa ngã “vào tù ra tội” ấy luôn mang trong mình tâm lý bất cần và sống buông thả, bị mọi người xa lánh thì việc thuyết phục họ là điều rất khó khăn.
Không chịu lùi bước trước gian nan thử thách, với kinh nghiệm nhiều năm làm bí thư chi bộ, ông nhận ra rằng: Muốn đưa người sa ngã trở lại con đường hoàn lương thì không còn cách nào khác là phải tạo được công ăn việc làm ổn định cho họ.
Thế chấp nhà để đẩy lùi ma túy
Với những việc làm cao cả của mình, ông Cao Xuân Dớn đã được Bộ Công an, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen và nhiều giấy khen cao quý khác. Đặc biệt, ông vinh dự thay mặt người dân khu phố 4 tham dự Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ VIII vào ngày 4-10-2005 và đọc tham luận tại Hội nghị thượng đỉnh cấp cao APEC năm 2006 tại Hà Nội.
Đang dở câu chuyện thì có tiếng xe máy nổ xình xịch đầu ngõ. Rồi một người đàn ông khoảng ngoài 30 tuổi bước vào. Theo sự giới thiệu của ông Dớn thì người đàn ông này chính là Phạm Văn Thành, trước đây vốn lừng lẫy trong giới giang hồ.
Khi nhắc lại quá khứ, anh bày tỏ: “Ngày trước nếu không gặp bác Dớn thì gia đình tôi đã không có được như ngày hôm nay”. Năm 1993 là thời gian đen tối nhất của gia đình anh. Nhà có 6 người thì cả 6 đều dính đến “nàng tiên nâu”. Kẻ ra tù, người vào trại như người ta ăn cơm bữa.
Khi anh được trở lại cộng đồng thì lại là quãng thời gian khó khăn nhất đối với anh. Ra tù không có gì ngoài hai bàn tay trắng cùng những cơn vật vã của ma túy và sự đàm tiếu nghi kỵ của người đời khiến anh lủi thủi một mình trong nhà không dám ra đường. Anh lại tự dằn vặt, căm ghét bản thân mình và tiếp tục sống buông thả, bất cần.
Biết chuyện, không chỉ động viên, an ủi anh vượt qua quãng thời gian khó khăn, ông Dớn còn cho anh vay một triệu đồng mua xích lô để tự kiếm sống. Ông Dớn kể lại: “Khi đó nhìn anh Thành có vẻ hối lỗi ăn năn nên tôi tin tưởng anh sẽ làm được những gì anh ấy nói. Nhà không có tiền nhưng tôi có sổ đỏ vậy là tôi quyết định thế chấp sổ đỏ căn nhà đang ở để có tiền giúp đỡ anh ấy”.
Có phương tiện kiếm sống, có cơ hội để làm lại cuộc đời, anh Thành đã không bỏ lỡ. Ngày ngày anh rong ruổi đạp xích lô kiếm tiền mưu sinh, tuy vất vả nhưng đã giúp anh thấy được giá trị của cuộc sống. Và từ đây, mọi người trong khu phố thấy anh vui vẻ, lạc quan, gần gũi và hay giúp đỡ người khác trái ngược hẳn với anh Thành một thời nổi tiếng chốn giang hồ.
Giờ đây anh Thành đã có một gia đình hạnh phúc. Không chỉ có vậy, anh còn được Sở y tế Hải Dương mời làm cộng tác viên cho ngành y tế, tuyên truyền viên cho phong trào phòng chống tệ nạn xã hội và HIV/AIDS với mức phụ cấp 900.000đ/tháng. Anh đã lấy quá khứ khổ đau của chính mình để thuyết phục, vận động những đối tượng nghiện ngập khác trên địa bàn trở lại làm người chân chính.
Theo chân ông Cao xuân Dớn, chúng tôi đến quán rửa xe của nhà anh Bùi Quang Thắng. Anh kể cho chúng tôi những ngày khi mới ở tù ra: Không tiền, không học thức, gia đình khánh kiệt, bà con khu phố đều nhìn anh với cái nhìn xa lạ, cảnh giác khi họ biết anh vẫn là con nghiện đói thuốc. Thế rồi ông Dớn đến, ông động viên anh với những tình cảm rất chân thành: “Sa ngã chưa hẳn là đáng trách mà điều đáng lên án là không biết tu tỉnh bằng nghị lực của mình. Nghe lời ông, anh quyết tâm đi cai nghiện để làm lại cuộc đời.
Khi ở trại cai nghiện về cũng chính ông Dớn cho anh vay 3 triệu đồng để mua máy móc phục vụ cho việc rửa xe. Ngoài anh Thành, anh Thắng, ông Dớn còn giúp đỡ nhiều cảnh đời khác như anh Bút phụ xe khách, bà Thanh ở cửa hàng bán nước… có cuộc sống ổn định hơn.
Khi kể chuyện với chúng tôi, ông Dớn còn kể lại một câu chuyện mà theo ông, nó sẽ mãi là một kỷ niệm không phai mờ. Ông kể: Mùa đông năm 2005, trong cái rét như cắt da cắt thịt, có người đến báo tin với ông ở đầu ngõ có một người đàn ông đã chết vì giá rét.
Ông vội vã chạy ra và kiểm tra thì người đàn ông trạc gần 60 tuổi đó chưa chết, vẫn còn sống. Bà con khu phố khi đó không ai dám đưa ông ấy về nhà vì sợ ông ấy nghiện. Nhìn người đàn ông nhỏ thó gầy guộc run rẩy trong đêm đông, ông không thể kìm lòng. Không mảy may suy nghĩ, ông quyết định đưa người đàn ông đó về nghỉ ngơi tại nhà mình.
Hỏi ra mới hay người đàn ông tên Phàm Bá Thìn, quê ở Yên Bái, vì hoàn cảnh khó khăn đành từ biệt gia đình xuống Hà Nội kiếm việc làm. Nhưng do tuổi cao lại không đáp ứng được yêu cầu công việc, trong người lại không có tiền, ông ta đi lang thang và dạt về thành phố Hải Dương. Sau khi nghe xong câu chuyện, ông Dớn đã lấy tiền dành dụm được để mua vé xe và mua thức ăn cho người đàn ông đó về quê.
Trong suốt thời gian qua, ông đã giúp đỡ 17 người sa ngã trở lại sống cuộc đời có ích cho xã hội, có công ăn việc làm ổn định. Khu phố 4 do ông quản lý từ khu phố trọng điểm về tệ nạn xã hội trở thành khu phố điển hình trong phong trào thi đua của thành phố.
Hải Ninh (Theo SGGP)
Bình luận (0)