|
|
Theo thông tư của Bộ GD-ĐT, bắt đầu từ 15-2, việc kiểm định chất lượng (KĐCL) giáo dục (GD) ĐH được thực hiện 5 năm/lần. Kinh nghiệm cho thấy, KĐCL GDĐH đòi hỏi sự đầu tư chiều sâu về tất cả các mặt…
KĐCL: ĐH vùng càng khó
Qua kinh nghiệm của Trường ĐH Bách khoa Đà Nẵng cho thấy, thực hiện công tác KĐCL gặp rất nhiều khó khăn, trong đó khó nhất là khâu thu thập minh chứng. Đặc trưng của mô hình ĐH vùng là hầu hết các trường thành viên đều sử dụng chung nguồn lực con người và CSVC. Vì vậy, việc xác định một số tiêu chí về đội ngũ giảng viên, cán bộ phục vụ, CSVC như: KTX, thư viện, sân tập thể thao gặp rất nhiều khó khăn.
Tiêu chí quan trọng nhất trong quá trình KĐCL là CSVC. Cái khó nhất của các trường ĐH tại Đà Nẵng khi tham gia kiểm định là trung tâm học liệu dùng chung cho toàn ĐH Đà Nẵng (7 trường thành viên). Mặc dù trung tâm có tổng diện tích mặt bằng 7.000m2, đáp ứng nhu cầu cùng lúc 1.500 người đọc, là thư viện điện tử hiện đại đầu tiên ở Việt Nam, được trang bị 350 máy tính nối mạng nhưng khó xác định tiêu chí liên quan đến thư viện khi một trường thành viên muốn tìm những minh chứng của riêng mình. Đối với Trung tâm GD thể chất và KTX SV cũng nằm trong tình trạng như vậy.
Bên cạnh đó, việc nhiều lần thay đổi lãnh đạo cùng với công tác lưu trữ tài liệu, báo cáo chưa thật sự khoa học hoặc đôi khi còn sơ sài khiến các trường gặp trở ngại trong quá trình thu thập minh chứng. Mặt khác, KĐCL được xem là phương thức mới nên trong thời gian đầu, nhiều cán bộ quản lý, giảng viên và SV chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của KĐCL GD. Việc tham gia và thực hiện các hoạt động KĐCL mặc dầu mang tính tự nguyện nhưng chưa hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu thực tế, chưa có sự gắn kết giữa kiểm định của cán bộ viên chức. Ngoài việc cải tiến, nâng cao chất lượng sau đánh giá theo kế hoạch hành động và theo kiến nghị của Hội đồng Quốc gia, KĐCL GD được triển khai hiệu quả sẽ có tác động tích cực đối với việc thay đổi về chất các hoạt động của nhà trường. Vì thế, KĐCL cần kinh phí phục vụ cho hoạt động tự đánh giá, tổ chức hoặc tham gia các đợt tập huấn, đánh giá ngoài. Với điều kiện nguồn kinh phí hạn hẹp như hiện nay, nguồn kinh phí dành riêng cho KĐCL chưa được quan tâm nên có những khó khăn nhất định trong quá trình triển khai…
Ngoài ra, các trường còn bị động trong việc xây dựng kế hoạch triển công tác KĐCL do phụ thuộc theo kế hoạch chung của Bộ GD-ĐT. Một số trường đã hoàn thành tự đánh giá nhưng không được thông báo về kế hoạch đánh giá ngoài của bộ. Bên cạnh đó, thời gian từ lúc hoàn thành tự đánh giá đến lúc đánh giá ngoài khá lâu, một số thông tin trong báo cáo đã không còn phù hợp. Việc phản hồi kết quả KĐCL còn chậm hoặc không có phản hồi chính thức có thể làm giảm ý nghĩa và sự tác động của KĐCL đến nhận thức của lãnh đạo và cán bộ, giảng viên của trường…
Duy trì chất lượng sau kiểm định
Kinh nghiệm thực tiễn chứng minh, từ Trường ĐH Bách khoa Đà Nẵng (một trong những trường thành viên của ĐH Đà Nẵng) – là một trong 20 trường ĐH đầu tiên của cả nước tham gia KĐCL và được công nhận đạt chuẩn chất lượng cho thấy, để công tác kiểm định thực hiện có hiệu quả trước và đảm bảo sau kiểm định, cần phải có sự tham gia tích cực của cán bộ, giảng viên, SV trong toàn trường. KĐCL là công tác cần thiết trong hoạt động GD. Nếu các trường ĐH làm tốt công tác này sẽ góp phần làm thay đổi về chất trong các lĩnh vực hoạt động của nhà trường bậc ĐH. Vì thế, tuy còn nhiều khó khăn trong quá trình triển khai, nhưng qua những gì các trường thành viên thuộc ĐH Đà Nẵng đã tham gia KĐCL sau hơn 5 năm (từ 2006) cho thấy, công tác kiểm định rất cần thiết, mang lại một sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng GD trong trường ĐH. Tuy nhiên, cần có sự đầu tư lớn về công sức, kinh phí, đặc biệt cần nâng cao nhận thức về kiểm định của cán bộ viên chức…
Công tác đảm bảo chất lượng sau KĐCL của các trường là vấn đề cần thiết nhằm tránh tình trạng kiểm định xong rồi để đó, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. KĐCL đóng vai trò quan trọng trong việc giúp nhà trường phát hiện những điểm mạnh cần phát huy và những điểm tồn tại cần phải khắc phục. Đơn cử như Trường ĐH Bách khoa đã thường xuyên tổ chức việc lấy ý kiến phản hồi của SV, ý kiến phản hồi của SV tốt nghiệp sau 2 tháng (khi các em về lại trường nhận bằng tốt nghiệp); tổ chức lấy ý kiến phản hồi của SV sau 1 năm tốt nghiệp, nhằm qua đó nắm bắt thông tin về việc làm của SV, cũng như những ý kiến đóng góp về chương trình đào tạo và các hoạt động khác của nhà trường; tổ chức lấy ý kiến phản hồi của doanh nghiệp – nhà tuyển dụng. Từ những kênh thông tin này, nhà trường có căn cứ để bổ sung, đổi mới chương trình đào tạo nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn với nhu cầu xã hội.
Thực tế sau kiểm định các trường được nâng cao chất lượng rõ rệt.
Phan Vĩnh Yên (ghi)


Bình luận (0)