Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) là một quá trình khó khăn tốn kém sức người, tiền bạc và ảnh hưởng tới hàng chục triệu người dân là đối tượng GD và làm GD. Để quá trình đổi mới GDPT thành công thì rất cần sự đồng thuận cao từ cấp xây dựng đề án, đến người thực hiện và người được thụ hưởng. Nếu xây dựng được một chương trình đổi mới GDPT với mục tiêu có tầm, đủ lớn và khả thi thì chắc chắn sẽ tạo được sự đồng thuận của nhân dân…
Kinh nghiệm từ các nước có nền GD phát triển như nước Nhật cho thấy, cuối thế kỷ 19 khi người dân Nhật đồng thuận với chủ trương đổi mới GD của hoàng đế Minh Trị theo tinh thần Fukuzawa, họ đã có những đóng góp rất lớn cho Nhà nước để xây trường, tạo dựng cơ sở hạ tầng cho GD. Chính từ sự chia sẻ của người dân mà công cuộc đổi mới GD thời Minh Trị đã thành công rực rỡ, từ đó tạo tiền đề để nước Nhật từ một quốc gia lệ thuộc trở thành cường quốc như ngày hôm nay.
Vì vậy, mục tiêu đủ lớn của chương trình đổi mới GDPT lần này là phải xây dựng nền GDPT cơ sở ban đầu vững chắc để xây dựng và hình thành thế hệ trẻ – nguồn nhân lực chính của đất nước có những kiến thức sâu rộng về mọi mặt. Theo đó, thế hệ trẻ phải có hiểu biết luật pháp quốc gia và quốc tế; tính kỷ luật cao; khả năng sáng tạo công nghệ và làm chủ công nghiệp cao; trình độ ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu của khu vực và thế giới.
Muốn thực hiện tốt những mục tiêu này, cần phải xây dựng một chương trình có tính khoa học và dựa trên một lý thuyết hay một bộ khung mang tính phổ biến đang được các nền GD tiên tiến trên thế giới áp dụng. Theo đó, nên sử dụng tính tham chiếu và ứng dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về phân loại GD của UNESCO để tạo sự tương thích cao với các hệ thống GD của những nước có nền GD tiên tiến.
Cụ thể, trong các bộ tài liệu về chương trình GDPT tổng thể (dự thảo) của Bộ GD-ĐT chưa thấy bất cứ tham chiếu nào liên quan đến “Hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về phân loại GD, ISCED”. Trong khi đó, ISCED là một tài liệu hướng dẫn, một bộ khung vô cùng quan trọng trong việc xây dựng một hệ thống GD quốc gia đã được nhiều nước tiên tiến như Anh, Đức, Mỹ, Phần Lan… áp dụng. ISCED có kết cấu rõ ràng các bậc học (6 bậc học theo ISCED năm 1997 và 8 bậc học theo ISCED năm 2011). Đặc biệt là các tiêu chuẩn đầu vào, đầu ra của của mỗi bậc học, cách phân luồng học sinh (HS) trong mỗi bậc học để các em phát huy tối đa tố chất, năng khiếu, nhu cầu hướng nghiệp cá nhân.
Bên cạnh đó, việc đánh giá, xếp hạng GD của các quốc gia cũng tham chiếu và dựa trên ISCED, điều đó cho thấy mức độ ứng dụng phổ biến của ISCED ở các nước phát triển. Rõ ràng ISCED là một bộ khung rất quan trọng để nền GD-ĐT nước ta tham vấn, tham khảo trong quá trình đổi mới chương trình. Bởi vì, trong thế giới toàn cầu và sự hội nhập đang diễn ra nhanh, mạnh như hiện nay, sự tương thích giữa GD của các nước sẽ một mặt nâng cao chất lượng GD, mặt khác tạo cơ hội liên thông GD-ĐT giữa nước ta với các nước khác.
Cần xây dựng kết cấu, mô hình hệ thống GD một cách rõ ràng, cụ thể cũng như sử dụng các phương pháp phân luồng ngay từ cấp THCS theo 2 hướng lý thuyết/hàn lâm và kỹ thuật/ứng dụng.
Ở tiểu học có độ dài 6 năm (tăng 1 năm so với dự thảo của Bộ GD-ĐT), bởi vì khi thực hiện phân luồng ngay từ đầu cấp THCS, cần thêm 1 năm tiểu học để HS trưởng thành hơn về trí tuệ, thể lực, các tố chất, cũng như có thêm thời gian để bộc lộ năng khiếu cá nhân rõ ràng hơn nhằm sẵn sàng cho việc phân luồng. Hiện nay, nhiều nước có nền GD tiên tiến trên thế giới đang áp dụng độ dài tiểu học là 6 năm như Anh, Mỹ, Úc, Phần Lan, Singapore…
Tiếp đến bậc THCS nên có độ dài là 3 năm (giảm 1 năm so với dự thảo chương trình của Bộ GD-ĐT) và chia làm 2 luồng, gồm: Lý thuyết/hàn lâm và kỹ thuật/ứng dụng. Giữa 2 luồng này cần có sự liên thông, tức là có kiểm tra, đánh giá để HS có thể chuyển từ luồng này sang luồng khác do nhu cầu, nguyện vọng, khả năng của bản thân trong quá trình học.
Đối với bậc THPT, thống nhất như ý kiến dự thảo của Bộ GD-ĐT nên có độ dài 3 năm và chia làm 3 luồng, gồm: Lý thuyết/hàn lâm, kỹ thuật/ứng dụng và học nghề. Sau khi kết thúc THPT, tổ chức kỳ thi chung và căn cứ vào kết quả này để phân luồng HS vào các trường ĐH, CĐ. Số HS không đủ điều kiện vào ĐH, CĐ sẽ học trung cấp, học nghề và tiếp cận với thị trường lao động.
Đặc biệt, bên cạnh các trường áp dụng chương trình chính quy cần xây dựng hệ thống GDPT tổng thể các trường thực nghiệm, trường năng khiếu, trường GD đặc biệt.
Ngoài ra, dự thảo cần quy định cụ thể các môn học bắt buộc HS phải chọn tối thiểu là bao nhiêu môn và chỉ được chọn tối đa là bao nhiêu môn/bậc học. Trong đó ở THCS, THPT nên chọn môn học bắt buộc không quá 5 môn và tổng số môn là 8 môn để tập trung dạy và học sâu hơn.
TS. Lương Hoài Nam

Bình luận (0)