Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành từ trong khói lửa chiến đấu trên con đường Trường Sơn huyền thoại trong những năm tháng kháng chiến của dân tộc ta. Ông được ví von là “nhà thơ của Trường Sơn” thật đúng! Nhà thơ, trước hết là một chiến sĩ; từng sống cùng đồng đội, cùng xông pha nơi bom rơi đạn nổ để nổ mìn phá đá, mở đường, san lấp hố bom cho những đoàn xe, đoàn quân đi ra tiền tuyến.

Bản thân tôi, một chiến sĩ vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu cuối năm 1974 đã chứng kiến tận mắt bao nỗi vất vả trên đường Trường Sơn. Lúc này, Mỹ đã rút quân về nước nên mức độ ác liệt đã giảm phần nào trên các ngả đường ra trận.
Mùa khô, bụi đường Trường Sơn bay mù mịt khi xe chạy qua. Đất bột màu đỏ do hàng trăm, hàng ngàn chiếc xe chạy ngược xuôi nghiền nát, xe ngập trong thứ bột đỏ ấy gần nửa bánh xe. Khi mùa mưa đến, lớp bột đỏ quạch này biến thành bùn nhão, gây biết bao khó khăn cho những đoàn xe ra trận.
Sau này, mở tuyến đường tây Trường Sơn qua nước bạn Lào; bên đông Trường Sơn mùa mưa thì bên tây Trường Sơn mùa khô nên xe vẫn chạy thông suốt, không còn lo trở ngại của thời tiết. Vì thế, khi nhà thơ Tố Hữu vượt Trường Sơn, tác giả đã viết: “Trường Sơn Đông nắng, Tây mưa/ Ai chưa đến đó như chưa rõ mình” (Nước non ngàn dặm).
Vì vậy, cả một khung trời kỷ niệm về đường Trường Sơn ùa dậy khi tôi may mắn được gặp nhà thơ Phạm Tiến Duật trong đợt tập huấn văn học vào năm 2000 tại Đại học Đà Nẵng do thầy Phan Văn Thu cùng nhà trường tổ chức. Biết bao kỷ niệm ùa về khi ngược dòng thời gian; trước mắt chúng tôi khi vượt Trường Sơn là những chiếc xe có thể nói là trần trụi, thùng xe được thay bằng những tấm phên nứa, hàng cọc hai bên giằng giữ là cây rừng đẽo gọt láng bóng.
Xe không có kính là có thật bởi bom Mỹ dội nên kính bể, rơi rụng hết tự lúc nào. Phía trên cabin xe là một mái tranh nứa được buộc chắc chắn để che nắng, che mưa… Cứ thế, người chiến sĩ vẫn lái xe chở đầy hàng chạy dọc Trường Sơn, hướng về phía trước: “Không có kính, rồi xe không có đèn/ Không có mui xe, thùng xe có xước/ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/ Chỉ cần trong xe có một trái tim” (Bài thơ về tiểu đội xe không kính).
Trong bài thơ này có một chi tiết lạ, và trong sách giáo khoa cũng không giải thích. Đó là chi tiết: “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng” rất khó hiểu cho người đọc. Ngay cả giáo viên, khi đọc qua cũng giảng cho nhanh, không dừng lại giải thích “gió vào xoa mắt đắng” là gì, vì không có cơ sở lý giải.
Thực ra, theo nhà thơ Phạm Tiến Duật, hoàn cảnh ra đời của bài thơ trên như sau: “Tôi viết bài này ở khu Bốn, trong một ngôi làng bị bom đánh tơi tả thuộc xã Đức Thủy, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Khi đó tôi chưa biết gì về Trường Sơn cả, chỉ mới từ ngoài Bắc vào, đi theo một đơn vị vận tải mà lính hầu hết là người Bắc Ninh nên mới viết “xoa mắt đắng”. Phương ngữ “đắng” của một số vùng quê Bắc Ninh nghĩa là “xót, ngứa” nên “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng” nghĩa là “nhìn thấy gió vào làm cho mắt xót, ngứa, khó chịu”…
Trong bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” cũng có nhiều chi tiết thú vị. Có trải qua chiến đấu, từng vượt Trường Sơn khói lửa mới thấm thía hết tinh thần lạc quan, yêu đời của người chiến sĩ được thể hiện qua bài thơ giàu chất hiện thực, giàu chất nhạc này.
Trong buổi chuyện trò thân mật tại hội trường Đại học Đà Nẵng, có ý kiến hỏi nhà thơ Phạm Tiến Duật rằng: Câu thơ “Hết rau rồi em có lấy măng không?” có vẻ chưa đúng. Vì mùa khô ở Trường Sơn đến nhanh, trời hanh khô, nóng bức thì rau rừng cũng tàn theo, trong đó có măng nứa, măng vầu… Vậy “hết rau rồi” thì măng cũng hết, làm sao đi lấy măng được? Nhà thơ tươi cười trả lời: Bạn nói rất đúng, khi rau rừng Trường Sơn không chịu nổi thời tiết hanh khô thì thời điểm này, cây nứa đã lên cao, không còn mùa măng nữa! Lúc này, dưới tán rừng Trường Sơn có rất nhiều củ móng ngựa (hình dáng như chiếc móng con ngựa) nên cánh nữ nuôi quân thường tổ chức đi đào củ này về nấu canh; có hương vị như củ khoai vạc miền xuôi (miền quê Nam bộ gọi là khoai ngọt). Lúc đó, không lẽ mình viết: “Hết rau rồi em đi đào củ móng ngựa không?”, nghe vừa trúc trắc, vừa buồn cười, vừa thiếu sự thanh thoát, trang nhã của hình ảnh, câu chữ.
Nhưng cũng có ý kiến nói rằng, đầu mùa khô tuy cây nứa đã lên cao, người hái măng chỉ cần rung lắc mạnh là cây măng trên ngọn sẽ gãy rớt xuống. Nhưng cây măng đã già, có vị đắng nhiều hơn vị ngọt lúc còn nhỏ nên chứa nhiều chất độc, ăn vào có thể say choáng…
Nhà thơ Phạm Tiến Duật (1941-2007) quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Ông tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, ông sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, nhà thơ Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam. Những đóng góp chủ yếu của ông cho văn học là tác phẩm thơ, phần lớn được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ… |
Trong bài viết “Đôi chi tiết về bài thơ “Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây” (Tạp chí Văn nghệ quân đội, ngày 23-12-2013), nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết: “Bài thơ được viết sau nhiều chặng đường vượt rừng gian nan. Cho đến nỗi, nếu chưa từng ở rừng, vượt rừng thì khó bề thông cảm hết với thơ ấy, bài ấy. Chẳng hạn như câu này: “Nước khe cạn, bướm bay lèn đá” không phải là một câu thơ tả đẹp mà là một quan sát đáng run sợ của lính trinh sát. Nếu thấy cảnh ấy vào lúc chập chiều thì cầm chắc là đói vì không thể có nước nấu cơm. Mười cây số vuông quanh đi không thể có nguồn nước. Hay là câu này: “Muỗi bay rừng già cho dài tay áo”, một bạn Việt kiều và một nhà thơ Pháp đã dịch là: Muỗi bay, mọi người mặc áo măng tô vào thì thật buồn cười. Họ không đi lính thì trách sao được”.
Có một giai thoại về ngôn ngữ thơ vô cùng thú vị về thơ Phạm Tiến Duật. Chuyện kể rằng, một lần hồi còn là bộ đội Trường Sơn, nhà thơ Phạm Tiến Duật cùng một người bạn tranh luận về ngôn ngữ thơ. Người bạn nói đã là thơ thì ngôn ngữ phải thanh nhã, không tục. Phạm Tiến Duật cho rằng cũng tùy vào trường hợp cụ thể. Và người bạn thách nhà thơ hãy làm một bài thơ thanh nhã có từ “nằm ngửa” (từ này gây một liên tưởng thiếu thanh nhã). Phạm Tiến Duật chịu nhưng lời thách đố cứ ám ảnh mãi không nguôi.
Bốn tháng sau, nhà thơ Phạm Tiến Duật đến thăm một bệnh viện dã chiến Trường Sơn và gặp một chiến sĩ lái xe bị thương đang điều trị ở đó. Biết bao tâm sự, nỗi nhớ về nghề nghiệp, về chiếc xe thân yêu, về những cung đường gian khổ, khốc liệt; về những đồng đội cùng chung đơn vị của người chiến sĩ lái xe được bộc lộ cùng nhà thơ.
Cảm xúc trước tinh thần dũng cảm, lạc quan cũng như ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm của người chiến sĩ lái xe, nhà thơ Phạm Tiến Duật viết ngay bài thơ “Nhớ lời một chiến sĩ lái xe”: Cái vết thương xoàng mà đưa viện/ Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo…/ Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến/ Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo” (1969).
Nhà thơ đã giải được lời thách đố của người bạn; đưa từ “nằm ngửa” vào bài thơ một cách tự nhiên, trang nhã.
Lê Đức Đồng
* Tài liệu tham khảo:
– Chuyện vui chữ nghĩa – Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, 1997.
– Tác giả nói về tác phẩm – Nhà xuất bản Trẻ, 2000.
– Tinh hoa thơ Việt – Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2007.
Bình luận (0)