Tạp Chí Giáo Dục TP.Hồ Chí Minh
Nhịp cầu sư phạmChuyện học đường

Phân biệt dấu gạch ngang và gạch nối

Tạp Chí Giáo Dục

Phân biệt dấu gạch ngang và gạch nối - Audio
00:00 / 00:00
An audio error has occurred, player will skip forward in 2 seconds.
  1. 1 Phân biệt dấu gạch ngang và gạch nối Audio

Du gch ngang và du gch ni trong ch viết tiếng Vit là hai loi du khác nhau v hình dng, chc năng, cách viết; tuy nhiên hin nay vn còn nhiu ngưi s dng ln ln.

Tên bệnh viện Chợ Rẫy (từ năm 1957) có dấu gạch nối Y-TẾ, BỊNH-VIỆN, CHỢ-RẨY (sic) 

Phân bit du gch ngang và du gch ni

Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học phân biệt rõ dấu gạch ngang và dấu gạch nối: “gạch ngang d. Dấu gạch ngang “–”, dài bằng hai dấu nối, thường dùng để viết tách riêng ra thành phần chú thích thêm trong câu hoặc để viết ghép một tổ hợp hai hay nhiều tên riêng, hai hay nhiều số cụ thể; khi đặt ở đầu dòng thì dùng để viết phân biệt các lời đối thoại, các phần liệt kê hoặc phần trình bày; gạch nối d. Dấu gạch ngang ngắn “-” thường dùng để nối những thành tố đã được viết rời của một từ đa tiết phiên âm tiếng nước ngoài” (trang 355).

Tương tự, Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên) cũng phân biệt: “gạch ngang dt. Dấu (–), dài hơn gạch nối, thường dùng để tách riêng ra thành phần chú thích thêm trong câu, viết ghép một tổ hợp hai hay nhiều tên riêng, hai hay nhiều số cụ thể, đặt ở đầu dòng nhằm viết các phần liệt kê, các lời đối thoại; còn gọi là dấu gạch ngang; gạch nối dt. Dấu (-), ngắn hơn gạch ngang, thường dùng để nối những thành tố đã được viết rời của từ đa tiết phiên âm, còn gọi là dấu gạch nối” (trang 701).

Như vậy, tựu trung lại, về bản chất, dấu gạch ngang (dài, –) là một dấu trong câu để gián cách giữa các từ, còn dấu gạch nối (ngắn -) không phải dấu câu, mà chỉ là một dấu trong từ, để nối liền các tiếng (trong từ đa tiết phiên âm) với nhau.

Sắc lệnh năm 1945 ghi tên VÕ-NGUYÊN-GIÁP có gạch nối

Về mặt chức năng, dấu gạch nối chủ yếu có nhiệm vụ nối liền các hình vị/âm tiết trong từ phiên âm, ví dụ: Lê-nin, ki-lô-gam…, nối các con số chỉ ngày tháng năm, ví dụ: 2-9-2025; còn dấu gạch ngang được đặt trước bộ phận liệt kê, dùng để tách phần chú thích/giải thích với các bộ phận khác của câu, đặt trước những câu hội thoại hoặc cụm liên kết từ, ví dụ: văn hóa – giáo dục; cụm liên kết số, ví dụ: năm học 2024–2025; tùy theo ngữ cảnh, nó được sử dụng để thay thế vai trò của dấu phẩy, dấu hai chấm hoặc dấu ngoặc đơn trong câu.

Khi viết, trước và sau dấu gạch ngang có chừa cách một khoảng trắng còn dấu gạch nối thì viết liền, ví dụ: Pa-ri – Thủ đô của Pháp.

Quy tc viết du gch ngang/gch ni trưc đây

Tham khảo văn bản hành chính của nước ta năm 1945 và sách giáo khoa ở miền Nam trước năm 1975, chúng ta thấy các từ ghép (cả từ Hán Việt lẫn thuần Việt), tên riêng được nối với nhau bằng gạch nối, viết liền, ví dụ như các từ trong sách giáo khoa (xem ảnh): Võ-Nguyên-Giáp, Hà-Mai-Anh, công-chúng, bổn-phận, nghèo-khó, ôm-dắt…

Trích Ngữ văn 10, tập 1 (bộ Chân trời sáng tạo), NXB Giáo dục Việt Nam, 2022, trang 43

Như vậy, theo quy tắc trên, giai đoạn trước 1975, cộng đồng trên cả nước có thói quen viết chữ quốc ngữ “nối” các tiếng với nhau như hiện nay ở trước Lăng Bác vẫn còn ghi Hồ-Chí-Minh, hoặc biển tên cũ của Bịnh-viện Chợ-Rẩy (sic).

Dấu gạch nối từng được sử dụng phổ biến trong từ vựng tiếng Việt giai đoạn bắt đầu dùng chữ quốc ngữ (chữ Latin) đến trước năm 1975, dùng để nối các âm tiết của từ ghép Hán Việt/thuần Việt, trong tất cả các phong cách chức năng: sinh hoạt, hành chính, báo chí, nghệ thuật… Như mọi hiện tượng ngôn ngữ khác, chính tả về dấu gạch ngang và dấu gạch nối cũng mang tính lịch đại, qua thời gian đã biến đổi, hiện đã không còn được sử dụng nguyên như thời kỳ trước.

Quy tc viết du gch ngang/gch ni hin nay

Quyết định 1989/QĐ-BGDĐT của Bộ GD-ĐT ban hành năm 2018 tuy không nêu cụ thể chính tả về dấu gạch nối nhưng qua các ví dụ minh họa, cách sử dụng dấu gạch nối đã được làm sáng tỏ. Trong Quyết định 1989 trên, quy định tại Điều 4 hướng dẫn cách viết tên người, tên địa lý Việt Nam không dùng dấu gạch nối, ví dụ: Triệu Thị Trinh, Trần Quốc Tuấn, Hưng Đạo Vương, Trần Hưng Đạo, Thân Nhân Trung, Hoàng Văn Thụ, Vừ A Dính; Cửu Long, Nam Định, Trường Sa, Hoàng Liên Sơn… Hướng dẫn cách viết tên người, tên địa lý nước ngoài được dịch nghĩa hoặc phiên âm sang tiếng Việt bằng từ Hán Việt đã dùng phổ biến, Quyết định 1989 nêu rõ: viết hoa chữ cái đầu của mỗi âm tiết, không dùng dấu gạch nối, ví dụ: Đỗ Phủ, Lỗ Tấn; Hắc Hải, Đại Tây Dương; Ba Lan, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ… (Điều 5).

Các danh nhân, địa danh nước ngoài “sử dụng hình thức phiên âm, có gạch nối để nối các âm tiết trong cùng một bộ phận tạo thành tên, ví dụ: Tô-mát Ê-đi-xơn, Mát-xcơ-va, Pa-ri, Tô-ky-ô… Riêng sách giáo khoa và các tài liệu dành cho học sinh lớp 4, lớp 5: Bên cạnh hình thức phiên âm, cần chú thích nguyên dạng (hoặc chú thích cách viết trong tiếng Anh) khi tên riêng lần đầu tiên xuất hiện dưới hình thức phiên âm trong sách, ví dụ: Tô-mát Ê-đi-xơn (Thomas Edison), Mát-xcơ-va (Moscow), Pa-ri (Paris), Tô-ky-ô (Tokyo)” (Điều 5). Cạnh đó, “trường hợp viết ngày, tháng, năm mà không sử dụng các từ tháng, năm thì thay các từ tháng, năm bằng dấu gạch nối và viết dấu này liền với chữ số, ví dụ: ngày 20-11-2017” (Điều 10).

Trích sách giáo khoa ở miền Nam trước năm 1975

Trong tiếng Việt, hệ thống dấu câu khá phong phú, là những dấu hiệu ngữ pháp giúp cho câu văn trở nên rõ ràng, mạch lạc và truyền đạt ý nghĩa một cách chính xác; học sinh phổ thông các cấp được cung cấp kiến thức về 10 loại dấu câu thông dụng, gồm dấu chấm, chấm hỏi, chấm than (chấm cảm), dấu phẩy, chấm phẩy, hai chấm, gạch ngang, ngoặc đơn, ngoặc kép, chấm lửng (ba chấm). Tuy không thấy giới thiệu về dấu gạch nối, nhưng chúng vẫn được sử dụng trong các trường hợp viết tên riêng tiếng nước ngoài phiên âm. Khảo sát một văn bản sách giáo khoa hiện hành dưới đây, chúng ta thấy quy tắc chính tả về dấu gạch ngang và dấu gạch nối được áp dụng chặt chẽ.

Dấu gạch nối dùng trong các từ phiên âm: Tơ-roa, Nô-đi-ca, Tê-lê-mác, Ka-ríp, Xi-la… Còn các câu cùng dùng cả hai loại dấu gạch ngang và dấu gạch nối, thì chúng đều được phân biệt rõ ràng, chuẩn xác về cả kích thước của dấu lẫn khoảng cách chừa trắng: … quốc đảo xa xôi – xứ Phê-a-xi…,  … phụ vương của nàng – đức vua An-ki-nô-ốt…, … 108 vị cầu hôn – những kẻ hằng ngày đến vây hãm, ép buộc vợ của Ô-đi-xê tái giá… (trang 43).

Một ngữ liệu khác (trang 48, sách giáo khoa đã dẫn) thể hiện đúng chuẩn quy tắc chính tả về dấu gạch ngang và dấu gạch nối:   Người Ê-đê thường làm nhà theo hướng bắc – nam. Nếu học sinh không chú ý phân biệt sự khác nhau về độ dài của dấu gạch ngang, dấu gạch nối và khoảng cách từng dấu khi sử dụng thì các em dễ lẫn lộn, sẽ bị rơi vào các trường hợp viết không đúng chuẩn chính tả như các trường hợp dưới đây: Người Ê – đê thường làm nhà theo hướng bắc – nam; người Ê-đê thường làm nhà theo hướng bắc-nam.

Việc sử dụng chuẩn xác các ký hiệu ngôn ngữ, dấu câu tiếng Việt nói chung, trong đó có dấu gạch ngang và dấu gạch nối sẽ giúp người viết, người đọc thể hiện chính xác, tinh tế ngữ điệu trong văn bản, đồng thời biểu thị các quan hệ ngữ pháp cùng những mục đích phát ngôn, giao tiếp khác nhau. Hơn thế nữa, tuân thủ nghiêm chỉnh các quy tắc chính tả – trong đó có quy tắc sử dụng dấu câu, dấu từ – khi tạo lập văn bản, đó chính là hành động thiết thực của chúng ta thể hiện ý thức giữ gìn sự tinh tế, trong sáng của tiếng mẹ đẻ, biểu lộ lòng yêu quý, trân trọng, tôn vinh giá trị, bản sắc của tiếng Việt giàu đẹp.

ThS. Đ Thành Dương

Bình luận (0)