Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, có những con người mà tên tuổi của họ vượt khỏi khuôn khổ thời gian, trở thành ngọn lửa soi sáng cho nhiều thế hệ sau. Một trong những ngọn lửa ấy là Phan Bội Châu – nhà cách mạng lỗi lạc, người mở đầu cho phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ 20.

Từ điển văn học (bộ mới) của NXB Thế giới (2004, tr. 1380), Nguyễn Đình Chú soạn chép về cụ Phan Bội Châu như sau: “Trong lịch sử văn học Việt Nam không dễ gì có nhiều văn chương có sức lay động quần chúng đứng lên đấu tranh cách mạng lớn lao như văn chương của Phan Bội Châu. Ngày nay trong văn chương đó, về tư tưởng và quan niệm, có thể điểm này điểm khác không còn phù hợp, nhưng trái tim chan chứa nhiệt huyết của tác giả vẫn còn nguyên giá trị. Ông là một trong số những nhà văn lớn của văn học Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20”. Với quan niệm và tầm nhìn tiến bộ “làm trai phải lạ ở trên đời” (Xuất dương lưu biệt), cuộc đời Phan Bội Châu không chỉ là một “bản trường ca yêu nước” được thêu dệt bằng những giai thoại đẹp như huyền thoại, phản chiếu phẩm chất cứng cỏi, trí tuệ và khí phách của một bậc anh hùng đáng để người đời suy nghiệm, học hỏi và hun đúc lòng yêu nước.
Người “đốt đuốc giữa ban ngày”
Xin bắt đầu câu chuyện về nhân vật lịch sử, vừa là nhà thơ, nhà văn lớn Việt Nam Phan Bội Châu với giai thoại chứa chan tình yêu nước nơi ông – “đốt đuốc giữa ban ngày”. Giai thoại kể, khi bị Pháp bắt giam rồi được tha nhưng vẫn bị quản thúc ở Huế, nhiều người thấy Phan Bội Châu mỗi sáng ra bờ sông Bến Ngự, tay cầm cây đuốc sáng rực. Ai cũng thắc mắc về hành động lạ này, Phan Bội Châu chỉ cười mà nói: “Tôi tìm người có lương tri giữa thế gian này”. Hành động và câu nói lạ ấy trông khác thường nhưng rất sâu cay. Trong thời buổi người ta chỉ biết cúi đầu trước cường quyền, chấp nhận làm thân nô lệ, thì việc “đốt đuốc giữa ban ngày” của Phan Bội Châu là một cách để khẳng định ánh sáng của chính nghĩa vẫn cần được thắp lên, dẫu giữa ban ngày nắng chói chang.
Phan Bội Châu tên thật là Phan Văn San, sinh năm 1867 tại làng Đan Nhiễm (Nghệ An). Thuở nhỏ ông nổi tiếng thông minh và bướng bỉnh. Nhiều giai thoại kể lại ông là cậu học trò “dám cãi thầy” và luôn có ý kiến, chí hướng “khác người”. Có lần, khi thầy giảng trong lớp về chuyện “trung quân là đạo lớn của kẻ sĩ”. Cậu học trò San liền đứng dậy “đối chất” thầy: “Thưa thầy, nếu vua hôn mê, khiến dân lầm than, thì có nên trung nữa chăng?”. Câu hỏi ấy làm cả lớp sững sờ, còn thầy thì chỉ biết lắc đầu. Nhưng hạt mầm phản kháng đã nảy mầm từ đó, “hiền thánh còn đâu học cũng hoài” (Xuất dương lưu biệt). Cậu học trò xứ Nghệ hiểu rằng, đạo trung với vua không thể lớn hơn lòng trung với nước. Về sau, chính quan niệm ấy đã dẫn ông đến con đường cách mạng, dù biết trước là rất gian nan, nguy hiểm.
Trong cuốn sách viết về Phan Bội Châu, nhà phê bình Hoài Thanh (người đồng hương với cụ Phan) có kể câu chuyện về Phan Bội Châu như sau: Năm 17 tuổi, ông viết bài hịch đánh Tây đem dán ở góc đa đầu làng để hưởng ứng việc Bắc kỳ khởi nghĩa kháng Pháp và kêu gọi mọi người ủng hộ. Nhưng ai cũng quay lưng, ông nhận ra rằng “danh chưa chính” nên “ngôn chưa thuận” (ý là chưa có danh thì lời nói chẳng ai nghe). Vì vậy mà dù chán ghét khoa bảng Nho học phong kiến, Phan Bội Châu vẫn bất đắc dĩ đi thi để có điều kiện cứu nước: “Mỗi bữa những mong ghi sử sách/ Lập thân hèn nhát ấy văn chương”. Sau khi đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương năm 1900, Phan Bội Châu được nhiều người kỳ vọng sẽ ra làm quan giúp nước. Nhưng ông thẳng thừng nói: “Làm quan mà để cúi đầu trước giặc, há chẳng thẹn với sông núi sao?”. Thay vì vào triều, ông rong ruổi khắp nơi, kết giao với những người cùng chí hướng, lập nên Duy Tân Hội – tổ chức cách mạng đầu tiên mang tư tưởng dân chủ và canh tân đất nước. Trong hành trình ấy, ông đã viết nhiều bài văn, bài thơ đầy khí phách, biến văn chương thành vũ khí chiến đấu như ông đã từng viết về Phan Chu Trinh: “Ba tấc lưỡi nào gươm nào súng, nhà cầm quyền trông gió đã gai ghê;/ Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ teo đèn thêm sáng chói” (Văn tế Phan Chu Trinh). Tác phẩm “Việt Nam vong quốc sử” của ông được bí mật in ấn, truyền bá khắp trong và ngoài nước, khơi dậy lòng yêu nước trong hàng triệu con tim người Việt. Có người hỏi ông là nhà nho sao lại bỏ bút theo gươm. Phan Bội Châu cười nói: “Người cầm bút cũng có thể đánh giặc, miễn là ngòi bút ấy có máu trong tim”.
Mượn lòng trung thành của chó để ám chỉ mật thám, tay sai
Trong những năm tháng bị giam lỏng tại Huế, “Ông già Bến Ngự” Phan Bội Châu có nuôi hai con chó. Ông đặt tên là Ky và Vá, khi chó mất Phan Bội Châu đã lập mộ cho chúng. Trong văn thơ của mình, Phan Tiên sinh cũng có bài viết về lòng trung thành và dành nhiều tình cảm cho hai con vật này. Trên tờ Trung kỳ tuần báo, số 14, ngày 15-4-1936, Phan Bội Châu có bài viết về con Vá và Ky với sự trung thành và nghĩa khí sâu sắc. Trong đó có mấy câu mở đầu: “Người hơi có đức nhân, hơi kém về phần trí/ Người hơi có đức trí, hơi kém về phần nhân/ Vừa trí vừa nhân, thật là ít thấy/ Ai ngờ con Ky nầy/ Lại đủ hai đức ấy/ Chung nhau thờ một chủ, thời xem nhau là anh em, chẳng bao giờ như mèo với chó, thực là nhân đó”. Và kết thúc như sau: “Ôi!/ Con Vá, mầy đủ hai đức đó/ Há như ai kia/ Mặt người lòng thú/ Nghĩ thế mà đau!/ Dựng bia mộ chó”.
Nhiều người cho rằng khi bị giam lỏng ở Huế, Phan Bội Châu bị mật thám, tay sai của thực dân Pháp bao vây, dò ngó. Đến khi con Vá, con Ky chết, cụ chôn cất tử tế, lại dựng bia cho nó. Đọc bài thơ trên, ai cũng rõ thâm ý của Phan Bội Châu muốn mượn lòng trung thành của chó để mỉa mai, mạt sát những kẻ lòng lang dạ thú, cam tâm làm tay sai cho Pháp mà đàn áp các nhà ái quốc Việt Nam.
Hồn… “gió sông Hương vẫn thổi hoài”
Nhà thơ Tố Hữu từng viết về Phan Bội Châu: “Ông già Bến Ngự còn đâu nữa/ Mà tiếng gió sông Hương vẫn thổi hoài”. Trong cuốn sách “Phan Châu Trinh toàn tập” (tập 3, NXB Đà Nẵng, 2005, tr. 66-68), có ghi lời đánh giá của cụ Phan Châu Trinh về Phan Bội Châu như sau: “Phan Bội Châu là người rất có chí khí, có nghị lực, nhẫn nhục, dám làm; có điều tin vào thì không chịu bỏ, dẫu có sấm sét cũng không đổi. Nay sĩ phu khắp nước chưa ai có thể ví với ông ấy”.
Sự ảnh hưởng về nhiệt huyết yêu nước của Phan Bội Châu với hơn 20 triệu đồng bào Việt Nam bấy giờ là rất lớn. Sau nhiều năm hoạt động ở nước ngoài, Phan Bội Châu bị Pháp bắt tại Thượng Hải (1925) và đưa về nước xử án tử hình. Nhưng nhờ phong trào nhân dân cả nước đấu tranh, chính quyền buộc phải giảm án, cho ông an trí ở Huế. Dù bị theo dõi nghiêm ngặt, “ông già Bến Ngự” vẫn trở thành biểu tượng sống của tinh thần bất khuất. Người dân Huế, người dân khắp cả nước tìm đến thăm ông, nghe ông giảng đạo lý, nghe ông kể chuyện nước. Mỗi buổi chiều, dưới bóng cây bên bến sông, hình ảnh cụ Phan ngồi trầm ngâm với ánh mắt xa xăm đã trở thành biểu tượng của một thế hệ vì dân, vì nước. Giai thoại kể rằng, có người thương ông quá, nói: “Cụ đã già, cụ nên nghỉ ngơi, đừng nghĩ chuyện nước nữa”. Phan Bội Châu cười mà rằng: “Thân tôi có thể mỏi, nhưng hồn nước trong tôi chưa bao giờ ngủ yên”. Gió sông Hương vẫn thổi qua những trang sử không bao giờ nhòa phai.
Trần Ngọc Tuấn

Bình luận (0)