Sự kiện giáo dụcTin tức

Phân luồng sau THCS và THPT vẫn “tắc”

Tạp Chí Giáo Dục

Trong nhiều năm qua, cả nước đang đẩy nhanh tiến độ phổ cập THCS, trong khi chủ trương phân luồng cho HS tốt nghiệp THCS chưa thực hiện được. Bên cạnh đó, công tác tư vấn hướng nghiệp cho thanh thiếu niên chọn nghề còn yếu kém…
Phân luồng gần như “tắc”
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2001-2005, tỷ lệ HS tốt nghiệp THCS mặc dù có xu hướng giảm đi, nhưng vẫn rất cao, cụ thể: Tỷ lệ này năm học 2001-2002 đạt 98,88%, đến năm học 2004-2005 tỷ lệ này là 96,10%. Mặc dù vậy, trong năm học 2004-2005, một số địa phương, vùng, tỷ lệ HS tốt nghiệp THCS vẫn rất cao, như vùng đồng bằng sông Hồng có Hải Dương đạt 99,83%; Nam Định – 99,78%…; vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung có Thanh Hóa – 99,37%; Khánh Hòa – 94,80%… Ngay ở vùng ĐBSCL, mặc dù tỷ lệ HS tốt nghiệp THCS thấp nhất nước, nhưng vẫn có địa phương tỷ lệ tốt nghiệp cao như Long An – 97%; Bạc Liêu – 95,86%… Như vậy, có thể nói, ngoại trừ một tỷ lệ nhất định bỏ học giữa chừng (khoảng trên 1%), còn hầu hết HS học THCS đều tốt nghiệp. Tỷ lệ tốt nghiệp THCS đạt từ 96-98%, nhiều địa phương tỷ lệ này đạt đến 100%. Vấn đề đặt ra là sau khi tốt nghiệp THCS, phần lớn số HS này lại tiếp tục học lên THPT, không phân luồng vào TCCN, TCN hoặc vào thị trường lao động (năm học 2007-2008 chỉ có 1,8% số học xong lớp 9 vào học TCCN và 2,5% vào học nghề). Kể từ năm học 2005-2006, chủ trương của Bộ GD-ĐT không tổ chức thi tốt nghiệp THCS mà chỉ thi hết lớp. Vì vậy có thể nói, trừ một tỷ lệ nhỏ bị lưu ban hoặc vì những lý do khác không học hết THCS, còn hầu hết HS học xong THCS đều vào học THPT. Chính vì vậy mà số HS THPT năm sau đều cao hơn năm trước. Hơn nữa, sau 3 năm học THPT, tỷ lệ tốt nghiệp cũng rất cao và xu hướng tăng lên.
Tỷ lệ HS tốt nghiệp THPT cao là một trong những nguyên nhân tạo ra sức ép đối với các đợt thi tuyển vào ĐH, CĐ hàng năm. Điều này cũng cho thấy, chủ trương phân luồng sau THCS, THPT của chúng ta đang bị tắc. Theo thống kê của Sở GD-ĐT Nghệ An, bình quân hàng năm, tỷ lệ tuyển sinh vào lớp 10 THPT trên địa bàn tỉnh chiếm trên dưới 75% số HS tốt nghiệp THCS. Hiện tại, tỉnh có 5 trường TCCN, nhưng tổng cộng tất cả các khóa của tất cả các trường cũng chỉ có 157 HS tốt nghiệp THCS theo học, riêng năm học này, chỉ có 17 em!
Vì sao “tắc”
Theo ông Nguyễn Mạnh Hà, Trưởng phòng Giáo dục chuyên nghiệp, Sở GD-ĐT Nghệ An thì trở ngại lớn nhất hiện nay của việc phân luồng HS sau THCS là trả lời cho các em hai câu hỏi “Học nghề gì? Học xong xin việc làm ở đâu?”. Rồi vấn đề tâm lý muốn thoát ly lao động chân tay, nhiều HS bất chấp năng lực của mình, không tính đến nhu cầu xã hội mà chỉ theo mong muốn của cha mẹ, theo bạn bè mà nộp đơn đăng ký thi vào ĐH; chỉ một số rất ít, bí quá mới đi học nghề. Mặt khác, các trường nghề đang đào tạo theo thị hiếu người học mà chưa quan tâm đến những nghề xã hội cần, nên HS học nghề xong, nhiều em không xin được việc làm. Nhiều nhà tuyển dụng lao động vẫn đang coi trọng bằng cấp, rất hiếm nơi tuyển dụng người tốt nghiệp TCCN. Trước thực tế đó, rất khó lòng thuyết phục và hướng nghiệp cho HS vào các trường TCCN, các trường nghề. Bên cạnh đó, công tác giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông lại yếu kém do thiếu đội ngũ cán bộ, giáo viên am hiểu về tâm lý, về nhu cầu lao động xã hội. Nhiều trường lại chưa quan tâm đến công tác giáo dục hướng nghiệp, thiếu sự phối hợp với các lực lượng xã hội có liên quan để đẩy mạnh công tác này. Trong đề án đổi mới căn bản toàn diện GD-ĐT, Bộ GD-ĐT cũng chỉ ra nguyên nhân khiến cho chủ trương phân luồng sau THCS và THPT đang gặp rất nhiều khó khăn. Đó là đào tạo nghề chưa gắn với quy hoạch phát triển nhân lực, gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành và địa phương. Một số ngành nghề kém hấp dẫn khó tìm việc, hoặc thu nhập thấp, không thu hút được người học vào trường dạy nghề và trung tâm dạy nghề, nhưng chưa có chính sách đủ mạnh để khắc phục được hạn chế này. Chất lượng đào tạo nghề nhìn tổng thể còn chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và của thị trường lao động về kỹ năng cứng (kỹ năng nghề) và kỹ năng mềm (tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo nhóm, an toàn lao động…). Nhiều HS, SV hạn chế về khả năng vận dụng kiến thức vào sản xuất và đời sống; chưa thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của công nghệ và thị trường lao động.
Nghiêm HUê

Bình luận (0)