|
Nhà thơ Trương Chính Tâm (thứ hai từ phải qua) chụp hình lưu niệm cùng với những người yêu thơ ca
|
Trong chương trình giao lưu văn nghệ kỷ niệm ngày sinh nhật Bác tại Câu lạc bộ Tiếng thơ Khánh Hội (quận 4, TP.HCM) mọi người thật sự xúc động khi nghe lại toàn bộ bài thơ Con đã trả thù của nhà thơ Trương Chính Tâm qua giọng ngâm ngọt ngào của NSƯT Hồng Vân. Có thể nói đây là một tác phẩm văn học vừa có giá trị về nội dung và nghệ thuật vừa mang một số phận đặc biệt.
Với tác giả Trương Chính Tâm, trong nhiều bài thơ viết về Bác Hồ có những bài anh viết bằng cả trái tim nồng cháy và khí phách hiên ngang của người Cộng sản.
Đường đi của một bài thơ
Nhà thơ Trương Chính Tâm nhớ lại: “Trước hết bài thơ Con đã trả thù được viết trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Ngày 3-9-1969 là ngày đau thương của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới khi nghe tin Bác Hồ ra đi mãi mãi. Đối với người dân Nam bộ, nỗi đau đó càng lớn lao hơn khi đất nước đang tạm thời bị chia cắt và luôn mong đợi ngày thống nhất để Bác vô thăm. Tuy chưa được một lần gặp Bác nhưng khi nghe tin Người từ trần qua bản tin đọc chậm cuối ngày của Thông tấn xã Giải phóng, ai cũng bàng hoàng và thương tiếc. Ngay tối hôm đó, với cảm xúc dâng trào không kìm nén được, tôi đã sáng tác bài thơ Con đã trả thù để phần nào vơi bớt nỗi đau thương và lấy thêm nghị lực cùng anh em trong phong trào học sinh sinh viên đô thị miền Nam tiếp tục hoạt động”. Cũng theo Trương Chính Tâm, bài thơ được sáng tác rất nhanh do mạch cảm xúc con tim tuôn trào. Bài thơ viết xong, anh coi đó là một nén nhang để tưởng nhớ tới vị lãnh tụ dù nghìn trùng ngăn cách. Tuy nhiên do hoàn cảnh hoạt động ngay trong lòng địch với sự kiểm soát rất gắt gao của những cặp mắt “cú vọ” suốt ngày dòm ngó nên bài thơ phải cất giữ bí mật không thể lan truyền rộng được. Anh xem đây là một kỷ vật thiêng liêng của người con đất thành đồng Nam bộ hướng ra miền Bắc nơi có Bác Hồ đang yên giấc ngàn thu.
May mắn “Tháng 9-1970, có nghĩa là đúng một năm sau, bài thơ Con đã trả thù đã được đăng ở trang thơ Thời chiến của Báo Đại Dân Tộc. Khi đọc tờ báo do ký giả Kiều Mộng Thu phụ trách lúc bấy giờ, tôi mới biết bài thơ đã được Ban biên tập cắt gọt mất đoạn cuối và lại không đăng tên tác giả”, dù thời gian đã trôi qua gần nửa thế kỷ nhưng nhà thơ Trương Chính Tâm vẫn còn nhớ rõ cái ngày đầu tiên bài thơ được đăng báo. Nỗi buồn thoáng qua trong lòng tác giả khi thấy đứa con tinh thần của mình không trọn vẹn hình hài vì sự kiểm duyệt quá gắt gao của chính quyền lúc bấy giờ. Nhưng hạnh phúc lớn đã lấn át tất cả vì lần đầu tiên tác phẩm đã được công khai sống trong lòng bạn đọc. Qua người thợ điện, bác nông dân, anh chiến sĩ bài thơ không còn là tình cảm riêng của một con người mà là tấm lòng chung của hàng triệu, hàng triệu đồng bào miền Nam biến đau thương thành sức mạnh để tiếp tục cầm súng chiến đấu chống lại kẻ thù. Tuy nhiên đối với những cán bộ hoạt động cách mạng bằng ngòi bút sáng tác thì họ coi đây là một chiến công lớn trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Do mang tư tưởng tiến bộ nên bài thơ đã phải len lỏi vượt qua hàng trăm bản thảo khác để đường đường chính chính được đưa lên mặt báo công khai. Đằng sau mỗi câu chữ bình dị và vô tư lại ẩn chứa biết bao điều nhắn gửi sâu kín của tác giả đến với bạn đọc yêu nước. Dù ở trong bóng tối quân thù nhưng bài thơ vẫn có sức mạnh để lung linh tỏa sáng ra bên ngoài.
Nặng tình của nhân dân
Tuy bài thơ không nói rõ về sự ra đi của Bác Hồ nhưng những câu thơ: “Lời di chúc truyền nhanh/ Vào bản tin đọc chậm/ Dấu phết đời người chặt đuôi thành dấu chấm” rõ ràng là câu chuyện về đồng bào, chiến sĩ miền Nam ngồi trong địa đạo hay bên chiến hào lắng nghe tin đọc chậm bản di chúc của Người từ Đài Phát thanh Giải phóng phát đi sau ngày Bác mất. Dấu chấm trong bản tin đọc chậm đã được tác giả khai thác triệt để để làm nên cấu tứ độc đáo của thi phẩm. Nhờ những chi tiết ẩn dụ khéo léo và cách nói hàm ngôn kín đáo mà bài thơ đã dễ dàng lọt qua được sự kiểm duyệt gắt gao của quân thù: “Khi tờ di chúc truyền thanh/ Xuống hàng bằng dấu chấm/ Khi hàng ngàn đứa con ta xuống đường đòi dân chủ/ Đòi kết án tử hình dấu chấm lũ ma vương”. Ai cũng hiểu, tuy không phải là đầu súng lưỡi lê ngoài mặt trận nhưng những sáng tác cách mạng như bài Con đã trả thù lại có sức mạnh vô biên đánh vào sào huyệt tư tưởng của quân thù. Bài thơ khóc Bác nhưng không đầy nước mắt ủy mị mà lại chất chứa nhiều oán giận trước tội ác tàn bạo của bầy lang sói. Bài thơ nói đến dấu chấm nhưng không có nghĩa là kết thúc. Tất cả đang mở ra một chặng đường mới của cách mạng.
Theo nhà thơ, tình cảm của nhân dân Nam bộ đối với vị lãnh tụ không chỉ thể hiện trong lời nói mà còn bằng những hành động cụ thể dù trước những thử thách vô cùng nguy hiểm và khó khăn. Không phải ai cũng đã được vinh dự gặp Bác Hồ nhưng hằn sâu trong tiềm thức đó là hình ảnh của một vị lãnh tụ sáng ngời đạo đức và suốt cả cuộc đời hy sinh hạnh phúc cá nhân vì độc lập tự do và cơm áo cho người dân lao động bần hàn. Tôi thật sự bất ngờ khi nghe nhà thơ kể lại câu chuyện một gia đình ở ngay trên đường Trần Hưng Đạo, quận 1, TP.HCM hàng năm vẫn tổ chức đám giỗ sau khi Bác mất. Đám giỗ bề ngoài vẫn được tổ chức theo phong cách, tập tục của một gia đình người Việt nhưng thật sự bên trong người tham dự ngoài con cháu trong dòng họ còn có anh em, cán bộ bí mật tham gia hoạt động phong trào nội đô. Điều đáng nói là đám giỗ được tổ chức long trọng trong ngôi nhà cách Nha cảnh sát đô thành không xa. Cũng trong hoàn cảnh ác liệt đó, bất chấp mọi sự đe dọa hung hăng của quân thù, nhiều nơi ở Cà Mau, Trà Vinh đã bí mật xây đền thờ Bác Hồ. Có thể nói không một thế lực và sức mạnh phi nghĩa nào ngăn cản được tình cảm cao quý của nhân dân Việt Nam nói chung và đồng bào Nam bộ nói riêng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày toàn dân đánh Mỹ. Đối với nhân dân Việt Nam, Hồ Chủ tịch là “Người Cha, người Bác, người Anh” rất thân quen gần gũi và muôn đời sống mãi với núi sông, cây cỏ, ruộng đồng quê hương.
Bài, ảnh: Phan Ngọc Quang
| Nhà thơ Trương Chính Tâm – Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM là bút danh của TS. Trương Minh Nhựt – Vụ trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Trưởng cơ quan thường trực phía Nam tại TP.HCM. Ông từng viết văn, làm báo, làm thơ trước năm 1975, nguyên Phó chủ tịch Tổng đoàn học sinh Sài Gòn, Phó chủ tịch Ủy ban Bảo vệ sinh hoạt dân chủ học đường, Văn đoàn trưởng Văn đoàn học sinh Sài Gòn. |


Bình luận (0)