|
Một tiết học văn tại Trường THPT Giồng Ông Tố (Q.2). Ảnh: Anh Khôi |
Theo nội dung sách giáo khoa (SGK) mới, phần tiếng Việt đã được đưa trở lại chương trình khối 12. Tuy nhiên, các đề thi dành cho khối cuối cấp không bao giờ có mặt những câu hỏi liên quan đến phần tiếng Việt. Chính vì thế trong việc tìm kiếm cách dạy và học phân môn này vẫn chưa có được nhiều ý kiến thống nhất và đưa ra trao đổi một cách cụ thể.
Còn nhớ năm 2000, mặc dù bộ sách lớp 12 chỉnh lý hợp nhất ra đời nhưng không có phần tiếng Việt, khi đó phân môn này còn được “ưu tiên” cho hai khối 10 và 11. Vốn là “anh em” nên tiếng Việt, làm văn và giảng văn đều có mối liên kết với nhau.
Nắm chắc ngữ liệu
Để cổ xúy cho việc tích hợp trong đổi mới phương pháp, tiếng Việt luôn được dạy len lỏi ở bộ môn ngữ văn. Vì thế nói các bước dạy như: Chú thích từ ngữ, tìm các biện pháp nghệ thuật tu từ hay phân tích câu… là phần xác của phân môn giảng văn thì phần hồn lại thuộc về phân môn tiếng Việt. Khi dạy bài Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, thầy Trần Thế Minh – giáo viên Trung tâm GDTX Tân Phú đã truyền thụ cho học sinh hai nội dung cơ bản, đó là Khái niệm sự trong sáng của tiếng Việt và Trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Theo thầy Minh, đây là loại bài phân môn tiếng Việt thiên về hình thành kiến thức, kỹ năng mới nên việc cung cấp tri thức khoa học được đặt lên hàng đầu. Chính vì thế mà ở phần 2, giáo viên còn phân tích sâu thêm ba phương diện, gồm tình cảm, nhận thức và hành động thiết thực nhằm có trách nhiệm cao trong ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đây cũng là cách làm quen thuộc của cô Nguyễn Thị Hồng Lan – giáo viên Trường THPT Thanh Đa (Q.Bình Thạnh) khi dạy bài Nhân vật giao tiếp và bài Luật thơ. Lấy khái niệm làm xuất phát điểm, giáo viên cho học sinh hiểu thêm về đặc điểm của nhân vật giao tiếp cũng như các thể thơ tiêu biểu Việt Nam. Tuy nhiên, việc xây nền kiến thức mới ở loại bài này chưa phải là điểm dừng chân cuối cùng vì cung cấp tri thức một cách đơn phương không phải là đặc thù của phân môn tiếng Việt. Hình thành kiến thức mới là “sứ mạng” được đưa lên trước – theo thầy Minh – vẫn còn những yêu cầu khác tiếp theo rất quan trọng mà không được bỏ qua. Đó là thao tác hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu. Xét về mặt vai trò, phân tích ngữ liệu chính là “cánh tay phải” của việc hình thành những tri thức lần đầu tiên xuất hiện trong lớp. Phân tích ngữ liệu có thể ví như là chiếc cầu nối để người học bước được sang bờ bên kia của luyện tập thực hành. Các em sẽ không còn khó khăn trong khâu thực hành khi đã nắm chắc các chất liệu, vật liệu ngôn ngữ. Căn cứ vào “kim chỉ nam” đó, khi soạn giáo án, cô Hồng Lan đã tiến hành theo ba bước. Để phân tích được sâu, trước hết giáo viên đã cho học sinh đọc to phần ngữ liệu theo SGK để cả lớp lắng nghe và thẩm thấu. Cũng giống như đọc văn bản, tùy theo ngữ liệu mà yêu cầu giọng đọc to rõ, nhẹ nhàng với ngữ điệu, trọng âm phù hợp. Không cầm tay chỉ việc mà thầy cô nên gợi dẫn để các em biết ngữ liệu đó đi ra từ văn bản văn học nào. Thực tế cho thấy các ngữ liệu ở đây luôn nằm trong cảnh cô đơn, tách biệt với văn bản nên giáo viên cần giải thích cho học sinh rõ từng ngữ liệu.
Công việc của thầy và trò
Một địa chỉ khác rất đáng tin cậy để cho các em dựa vào đó phân tích ngữ liệu chính là câu hỏi trong SGK. Tuy chưa có đáp án cụ thể nhưng hệ thống câu hỏi có tác dụng khơi mào rất tốt. Đây còn là cách để học sinh chủ động và tự tin trong hành trình khai phá tri thức.
Mặc dù SGK đã có bày biện sẵn phần Ghi nhớ nhưng giáo viên cũng nên chốt lại những nội dung cơ bản và sau đó để các em nhập tâm bằng cách đọc to cho cả lớp nghe. Ở phần Luyện tập, theo thông lệ giáo viên có thể cho các em làm bài theo cá nhân hoặc theo nhóm, tổ. Tuy nhiên đối với tiếng Việt, thảo luận nhóm tổ là hình thức phù hợp hơn cả. Có như vậy mới mang đậm sắc thái riêng của phân môn này. Là linh hồn của một tập thể lớp, cuối cùng giáo viên phải đưa ra đáp án thống nhất cho mỗi bài tập. Công việc này gần giống với dạy loại bài tiếng Việt nặng về thực hành nhằm củng cố kiến thức và kỹ năng đã có như: Thực hành về một số phép tu từ ngữ âm, cú pháp hay thực hành về hàm ý. Ở loại bài này giáo viên chú ý nghiêng về các hoạt động như cho học sinh đọc và hiểu đúng bài tập thông qua việc lục lại trí nhớ những tiết đã học trước đó. Theo kinh nghiệm, cũng không nên phân định rạch ròi để ôn lại kiến thức cũ đầu giờ học mà trong quá trình “tác nghiệp” giáo viên nhắc hoặc cho các em nhắc lại để in đậm kiến thức, kỹ năng đã học. Đó cũng là cách học thuộc bài ngay tại lớp mà không cần phải về nhà học gạo. Điểm lưu ý nữa là bài tập tiếng Việt thường có những yêu cầu khác nhau về mức độ nên người dạy phải tùy theo tình hình thực tế ở từng vùng miền, từng lớp học và tùy thời gian thực tế để lựa chọn loại “khẩu vị và thực đơn” thích hợp. Điều mà trước đây chưa ai quan tâm và nay cũng có người lúng túng không thực hiện được nhưng nếu có ý thức và nhiều kinh nghiệm thì mọi thứ coi như chuyện nhỏ.
Phan Ngọc Quang


Bình luận (0)