Sự kiện giáo dụcVấn đề - Sự kiện

“Rác” ngôn ngữ làm “vẩn đục” tiếng Việt

Tạp Chí Giáo Dục

PGS.TS Phạm Văn Tình bên bàn làm việc

Có một thực tế mà ta phải thừa nhận là ngôn ngữ luôn luôn có sự vận động, thay đổi để phù hợp với tình hình phát triển của xã hội. Tiếng Việt cũng không tránh khỏi điều này.
Việt hóa từ vay mượn để làm phong phú vốn từ
Tiếng Việt vay mượn khá nhiều, có từ do áp lực ta phải dùng, có từ ta chưa có nên phải “vay” hoặc nhiều từ ta có rồi nhưng vẫn mượn thêm để làm phong phú hơn cách sử dụng. Từ điển từ mới (Viện Ngôn ngữ học, 2002) đã thu thập khoảng 3.000 từ mới các loại trong vòng 15 năm (1985-2000). Đây là hệ quả của nhiều năm đổi mới, hội nhập. Và không chỉ tiếng Việt, nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới cũng phải “gồng” lên chống đỡ cơn bão tiếng Anh thổi khắp toàn cầu. Tuy nhiên, một tiếng Việt trong sáng là phải cơ bản thuần nhất, có cách nói, cách dùng từ chuẩn với đại đa số, mang tư duy dân tộc.
Nhiều người cho rằng phải căn cứ vào nguồn gốc của nguyên ngữ mà dùng cho chuẩn. Như vậy, có nhiều từ Hán Việt ta mượn và dùng đúng theo nghĩa Hán (cả âm và nghĩa). Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp trong quá trình thu nhận và sử dụng tiếng Việt đã có sự điều chỉnh, sai lệch. Chẳng hạn như “vô tình” ít dùng nghĩa “không có tình, bất nghĩa” như tiếng Hán mà dùng “ngẫu nhiên, không chủ định, không cố ý”, “khiêm tốn” không chỉ với ý nghĩa “ý thức và thái độ đúng mực” mà còn dùng để chỉ sự “ít ỏi, nhỏ bé, không đáng kể” (mức lương khiêm tốn, chiều cao khiêm tốn, thành tích còn khiêm tốn…)… Những từ này đã được người Việt sử dụng trong giao tiếp một cách quen thuộc đến mức không nhận ra lỗi sai và những cái sai đó đã được bình thường hóa. Ngay cả những cách nói được coi là “thừa” như: đường quốc lộ (lộ: đường), cây cổ thụ (thụ: cây), ngày sinh nhật (nhật: ngày), bà quả phụ (phụ: bà), virus HIV (HIV= Human Immunodeficiency Virus – Virus làm suy giảm miễn dịch ở người)… nhiều khi vẫn được sử dụng như một “độ dư cần thiết” để làm rõ nghĩa hoặc làm tăng sắc thái biểu cảm.
Khi vay mượn, có nhiều từ dựa trên cơ sở âm và nghĩa gốc người Việt đã uốn nắn lại như laplat: lập là, la clé: lắc lê… Nếu so sánh nhiều từ, ta thấy âm và nghĩa gốc có khi đã “mờ” đi, chẳng hạn như từ show (sô) trong tiếng Anh có nghĩa là buổi trình diễn nghệ thuật, suất diễn nhưng hiện tại sô tiếng Việt còn thêm nhiều nghĩa: một phi vụ làm ăn (bể sô), một công việc nào đó đòi hỏi luân phiên, nhiều lần (chạy sô đi dạy, chạy sô đám cưới, chạy sô thuyết trình…). Đây là sự phát triển tự nhiên của ngôn ngữ vay mượn. Khi mượn một cách đúng mức và sáng tạo, người Việt đã thực hiện một công cuộc Việt hóa triệt để nhiều từ ngữ, mượn cách nói tiếng nước ngoài để làm phong phú vốn từ của mình. Trên báo chí hiện nay các cách nói như: …tại sao không? (why not?), từ… đến… (from… to…), vấn đề là ở chỗ… (tiếng Nga: delo v tom, chto…) đã quá quen thuộc và thông dụng. Chúng ta dùng theo cách của ta, hòa vào cách nói chung của tiếng Việt và rõ ràng câu văn vì thế mà trở nên rõ ràng, uyển chuyển hơn. Ta chống lại sự vay mượn tràn lan song rõ ràng cũng có cái đáng mượn. Có những cái ta mượn và biến thành “tài sản” của riêng ta, khác đến nỗi “chủ nhân” của nó không còn nhận ra khi gặp lại. Phải nói rằng tiếng Việt đã “giàu” và sinh động hơn nhờ vay mượn và Việt hóa một cách tuyệt vời một số lượng đáng kể từ ngữ gốc Hán và gốc Pháp.
“Rác” ngôn ngữ đầy rẫy…
Những bức xúc như vậy không phải là không có căn cứ. Đó là hiện tượng nói và viết tiếng Việt một cách tùy tiện, bừa bãi trong đời sống hàng ngày và cả trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng ngôn ngữ trên mạng mới thật sự là đáng sợ. Nó bát nháo, tùy hứng trăm hình vạn vẻ. Đáng lo ngại là hiện tượng nói bậy, nói lóng, viết sai… lại phổ biến trong giới trẻ, ở tuổi học đường mà thế hệ này lại chiếm một tỷ lệ lớn trong cơ cấu dân số (gần 24 triệu học sinh).
Gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt không thể thoát ly vấn đề chuẩn hóa mà chuẩn hóa có nghĩa là “lựa chọn một biến thể hợp lý trong những biến thể đang tồn tại”. Chuẩn luôn tôn trọng tính cộng đồng và dân chủ. Tuy nhiên, chính vì cách hiểu dân chủ kia mà tiếng Việt đang đứng trước nguy cơ của sự vi phạm. Điển hình là cách nói lóng trong thế giới học đường.
Tiếng Việt hiện nay đã thay đổi rất nhiều về diện mạo: giàu hơn và đa năng hơn trong việc thể hiện công cụ giao tiếp ở mọi lĩnh vực. Tiếng Việt chưa đến nỗi rung chuông báo động, giương “đèn đỏ” vì sự “mất trong sáng trầm trọng”. Tuy nhiên, tiếng Việt có nhiều điều đáng quan tâm và có cách ứng xử kịp thời. Nếu không, ngôn ngữ yêu quý này có nguy cơ bị vẩn đục do chính thái độ của chúng ta.
Đầu tiên chỉ nói cho vui hoặc chỉ nói trong phạm vi hạn hẹp rồi nhanh chóng lây lan trong diện rộng. Chẳng hạn như gọi bố mẹ là “tiền bối lỗi thời”, xe máy là “con nghẽo”, tiền bạc là “máu khô, tiền âm phủ”, bạn gái là “gà tóc nâu” bạn trai là “xe ôm”, bị kiểm điểm là “chào cờ”, ăn điểm kém là “vác gậy Trường Sơn”…. Rồi nói tiếp âm các từ với các tên tuổi nổi tiếng như yết kiêu vừa chứ (kiêu vừa thôi chứ), lỗ tấn to rồi (lỗ to), chớ hồng lâu mộng (chớ mơ mộng), không phan đình rót (mà phan đình tu)… Đáng ngạc nhiên và đáng sợ hơn cả là ngôn ngữ chat (tán gẫu trên mạng). Nếu ai đã từng vào mạng, xem các trang blog, email… thì sẽ thấy chính tả tiếng Việt biến dạng đến mức nào. Có thể nói là bát nháo, thiên hình vạn trạng…
Nhiều người cho rằng, mạng ở đâu cũng thế, sang Mỹ hay Hàn Quốc, Nga… giới trẻ có khi còn “quậy” hơn, ngôn ngữ chat của họ “khủng” hơn nhiều. Đó là một trò tiêu khiển mang tính cá nhân mà(!). Nhiều người cho rằng: “Chuẩn đâu thì chuẩn chứ ngôn ngữ chat, blog thì không thể quy định chuẩn được. Một mình mình biết mình hay một mình thì hà cớ gì mà bắt người ta theo nhỉ?”. Tuy nhiên, dù là giải trí thì cái gì cũng phải có chừng mực. Đây cũng không phải “khoảng trời riêng” không ai biết. Ngôn ngữ mạng hòa vào cộng đồng cư dân mạng mà từ đây sẽ lan truyền ra cư dân ngoài đời. Hơn nữa, cách dùng theo kiểu tự sáng tạo như vậy không khéo sẽ bị lệch lạc. Cái lạ nhiều khi bị giới trẻ nhầm lẫn với cái tôi và “cái sáng tạo”, “cái hay”. Những cái mới đó lại rất dễ lây lan, khi đã lây nhiễm rồi nó như một “con đỉa” vậy, bám rất chặt rất dai, rất khó gỡ bỏ.
Thực tế vừa qua, trong một đợt khảo sát bài viết và bài thi của một số trường THPT tại Hà Nội, chúng tôi phát hiện rất nhiều lỗi được cho là “nằm ngoài kiến thức”. Đó là việc viết tắt, viết hoa và viết kèm theo tiếng nước ngoài vô lối, viết theo ngôn ngữ biến dạng xuất hiện (nhiều ít khác nhau) ở các văn bản học đường đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc trường quy. Những thói quen đã ăn sâu vào tiềm thức nhiều khi nó tự bật ra như một phản xạ tự nhiên, bản thân nhiều học sinh cũng không nhận ra điều đó mà gỡ bỏ.
Đáng tiếc là nhà trường, giáo viên, bố mẹ ít quan tâm và nhắc nhở. Giáo dục ngôn ngữ là một mặt quan trọng của giáo dục tri thức học đường. Thật buồn là một bộ phận giới trẻ chỉ mải mê vào các cuộc giải trí mang tính công nghệ (chat, game online…) mà quên không chịu đọc sách báo nói chung. Phải chịu đọc nhiều, tham khảo giao tiếp xã hội, chịu “va chạm” thì chúng ta mới hình thành một “ngữ năng” ổn định, có khả năng đánh giá sự đúng sai và có khả năng trau dồi sự diễn đạt ngôn ngữ của mình.
PGS.TS PHẠM VĂN TÌNH
LTS: Sau bài viết Báo động về sự biến dạng của tiếng Việt, ra ngày thứ tư, 23-6-2010 trên Giáo Dục TP.HCM, PGS.TS PHẠM VĂN TÌNH (Phó tổng biên tập Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư – Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam) đưa ra ý kiến: Đứng trước thực trạng thay đổi khá nhanh chóng gần đây của tiếng Việt, dư luận xã hội lo lắng và lên tiếng cảnh báo về hiện tượng sử dụng ngôn ngữ tùy tiện, cẩu thả làm “vẩn đục” tiếng mẹ đẻ, thậm chí nhiều người còn cho rằng “tiếng Việt đang bị làm hỏng”, “đang xuống cấp trầm trọng” và “Chúng ta phải có thái độ kiên quyết và rõ ràng để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, phải hành động trước khi quá muộn”. Thực tế, vấn đề có đến nỗi như thế không?
 

Bình luận (0)