Rác thải và xử lý rác thải công nghiệp, độc hại gây ô nhiễm môi trường đang là vấn đề bức xúc không chỉ đối với các cơ quan chức năng mà toàn xã hội.
Nhìn ra các đô thị lớn của thế giới, việc áp dụng công nghệ đốt chất thải tái tạo năng lượng (WtE) ngày càng tăng và tỉ lệ áp dụng bãi chôn lấp rác thải ngày càng giảm. Tuy nhiên, tại Hà Nội cũng như các thành phố lớn của VN, việc áp dụng công nghệ WtE còn gặp nhiều khó khăn.

Rác thải gây ô nhiễm môi trường.
Quá tải các bãi rác ở Hà Nội
Các chuyên gia tại hội thảo “Công nghệ đốt chất thải tái tạo năng lượng – khả năng triển khai tại VN” đã đưa ra một thực tế đáng lo ngại: Đến năm 2012, Hà Nội có thể sẽ không còn chỗ đổ rác. Chỉ tính riêng chất thải rắn công nghiệp tại HN, mỗi ngày được thu gom thông qua hệ thống của Cty môi trường đô thị vận chuyển về Nam Sơn để xử lý là 70-100 tấn/ngày – chiếm trên 50-60% lượng chất thải công nghiệp được thu gom.
Tại đó, chất thải công nghiệp không nguy hại chỉ được xử lý chủ yếu bằng phương pháp chôn lấp, đóng rắn; số chất thải nguy hại cơ bản được xử lý bằng phương pháp đốt với lò đốt chất thải công nghiệp. Cùng với hơn 250 KCN, lượng chất thải rắn sinh hoạt tại HN hiện khoảng 5.000 tấn/ngày đêm và trung bình tăng 15%/năm. Với đà này, các bãi chứa rác của HN sắp đầy ứ và không còn năng lực để xử lý.
Chuyên gia kinh tế Bùi Văn – GĐ nội dung kênh truyền hình Kinh tế – Tài chính FBNC – nhận định, hiện các bãi chứa rác của HN gần như đầy ứ và không còn năng lực để xử lý, công nghệ chôn lấp và xử lý rác mà lâu nay HN và các địa phương đang thực hiện đã phát sinh nhiều bất cập; nghiêm trọng nhất là các bãi rác thải đã gây ô nhiễm nguồn nước, khí thải và lãng phí tài nguyên đất.
Hầu hết các cơ sở công nghiệp đều xả trực tiếp nước thải vào các sông mương và hồ của TP. Đã có nhiều tài liệu cho thấy, nước thải công nghiệp của HN có chứa các chất lơ lửng, các hợp chất chứa P, N, CN, chỉ số BOD5 (nhu cầu ôxy sinh hóa các chất hữu cơ), COD (nhu cầu ôxy hóa học chất hữu cơ), kim loại nặng đều rất cao. Hầu hết các sông hồ của Hà Nội đều bị ô nhiễm cả về cơ học, hóa học và sinh học, có sự phân hủy yếm khí tạo ra khí độc như H2S, NH4.
Còn về chất thải y tế, PGS-TS Nguyễn Huy Nga – Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế, Bộ Y tế – cũng bày tỏ trăn trở về rác thải y tế, đặc biệt là chất thải rắn y tế nguy hại. Theo ông Nga, các bệnh viện tại HN mỗi ngày thải khoảng 40,5 tấn (chiếm 11,7% tổng lượng chất thải phát sinh). Dự kiến, năm 2015 – 2020, con số này lần lượt là trên 70 tấn/ngày và trên 93 tấn/ngày với chủ yếu là chất thải nguy hại vi khuẩn, vi trùng gây bệnh. Nếu khối lượng rác khổng lồ đó không được xử lý đúng chuẩn, đó sẽ là ẩn họa khó lường cho cuộc sống của người dân.
Khó áp dụng công nghệ WtE ở VN
Mới đây, tại HN, Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường VN phối hợp cùng TCty cổ phần XNK và Xây dựng VN đã tổ chức hội thảo “Công nghệ đốt chất thải tái tạo năng lượng – khả năng triển khai tại VN”. Công nghệ WtE đã được giới khoa học đánh giá cao nhờ những ưu điểm vượt trội như: Đảm bảo vệ sinh bằng cách giảm ô nhiễm vi sinh, giảm khối lượng rác thải đến 90%; tiêu huỷ các hợp chất hữu cơ, hoá chất, tái tạo ra năng lượng nhiệt, điện và nguyên liệu như kính, gạch; giảm ô nhiễm nước, đất và mặt đất, giảm thải khí nhà kính (CH4); không tốn quỹ đất và linh hoạt với quy hoạch, mỹ quan đô thị; không đòi hỏi phân loại rác từ đầu, vốn khó áp dụng đối với việc thay đổi hành vi người dân…
Tuy nhiên, hội thảo cũng khẳng định, công nghệ này gặp nhiều khó khăn khi áp dụng tại VN. PGS-TS Nguyễn Huy Nga cho biết: Một số bệnh viện đã áp dụng công nghệ lò đốt này, tuy nhiên, đa số là các lò đốt nhỏ, không đạt yêu cầu. Chủ yếu các cơ sở y tế quận, huyện vẫn dùng hình thức chôn lấp vì giá thành để đốt 1kg rác thải y tế ở VN mất khoảng 80.000 đồng trong khi với số lượng đó ở Nhật Bản chỉ mất khoảng 10.000 đồng. Thậm chí, có cơ sở y tế bỏ tiền mua lò đốt, nhưng bỏ không 5 năm không sử dụng. Do đó, việc xử lý rác thải hiện vẫn đang là vấn đề nan giải của các cơ quan chức năng và chính quyền thành phố.
Theo Bích Hường
Lao Động

Bình luận (0)