Dọn bữa cơm sơ sài trên tấm lá dừa nước trong túp lều dựng tạm bằng bạt ở cửa rừng Vàm Sát, Cần Giờ. Ông Tư (Nguyễn Văn Tư) ăn vội chén cơm cho bữa chiều rồi mang đồ nghề bắt đầu một đêm làm việc. Đây là nơi mưu sinh từ bao đời nay của hàng trăm gia đình kiếm sống bằng nghề bắt cua, câu cá và bắt ong rừng.
Vật lộn với nghèo đói
“Đi vào buổi tối làm sao bác bắt ong được?”, tôi hỏi. Ông Tư cười khề khà ra vẻ chê bai: “Trời ơi! Cháu không biết à, bắt ong cầy, ong chúa sao đi vào ban ngày được, lỡ nó đốt chết thì sao?”. Rồi bác Tư lý giải: “Đi bắt ong muỗi thì đi vào ban ngày, nhưng mùa này không có. Vào tháng 9, tháng 10 như bây giờ ong hiếm lắm, đúng vụ phải vào tháng 2 tháng 3 cơ, nhưng nồi cơm cả nhà dựa vào ong, dù khó nhưng vẫn phải đi”. Ông Tư vừa dứt lời thì từ phía sau bìa rừng một người phụ nữ bước vào lều lên tiếng: “Các cháu đến mua mật ong phải không? Mùa này mật ong tốt lắm, nhưng giá hơi cao 300 – 400 ngàn đồng một lít. Tôi đang có một chai, ông ấy đi bắt cả tháng nay đó”. Không đợi chúng tôi hỏi thì ông Tư giới thiệu: “Đây là bà Tám Nhánh “bà nhà” tôi đấy, trước kia bà cũng đi bắt ong với tôi, thời gian sau theo thằng út ra cào nghêu ở bãi biển Cần Thạnh, gần 70 tuổi rồi, bệnh tật thường xuyên nên không đi bắt được nữa”. Chúng tôi nói là phóng viên, muốn tìm hiểu để viết bài thôi chứ không mua ong. Nghe vậy, nét mặt của bác Tám Nhánh chùng xuống rồi buông lời: “Các chú cho tôi bắp ngô, củ khoai thì còn ăn được, chứ còn báo chí cả nhà tôi có ai biết đọc đâu”. Ông Tư kéo chiếc lá dừa nước đang phơi mời chúng tôi ngồi rồi kể tiếp: “Nhà tôi có ba “mặt” cháu, nhưng một thằng đi bắt cua bị rắn độc cắn chết cách đây mấy năm. Thằng đầu theo tui vào rừng lấy mật ong, còn đứa út ra biển cào nghêu. Mấy đời nay chúng tôi đều sống nhờ vào rừng, có biết điện đóm, phố xá là gì đâu. Tôi chỉ thương cho hai đứa con, chúng nó đã gần 40 tuổi rồi mà chưa có đứa con gái nào để ý. Tôi nghĩ, nếu dọn nhà ra ở gần đường nhựa, có gặp được cô gái “sứt môi, lồi rốn” nào ưng thì lấy làm vợ, nhưng ra ở đây cả hai năm nay rồi mà tình hình vẫn như vậy!”.
6 giờ tối, nước rút dần. Đứng dưới chân cầu đã thấy gốc mắm trồi lên. Sau khi buộc chân bằng mảnh cao su, anh Nguyễn Phú Quý ôm theo chiếc đèn, tay cầm que sắt và một chiếc túi đeo sau lưng tiến vào rừng bắt đầu cho một đêm làm việc. Chúng tôi vội bước theo anh đi vào con đường nhỏ ven rừng. Anh vừa đi vừa nói: “Đi vào ban đêm vừa bắt được ong, vừa bắt cua, thỉnh thoảng lại bắt được chim nữa. Bữa nào “làm được” thì bắt được 2-3 con cua, còn nhiều bữa vào rừng trời mưa như trút nước đành về không”. Anh Quý nhẩm tính cả khu vực này có khoảng 30-50 gia đình thường xuyên sống bằng nghề này. Trong đó phân nửa là dân từ các nơi khác về đây kiếm sống. “Cứ tháng 2, tháng 3 vào mùa ong thì hàng trăm người đổ về đây bắt ong, nay hết mùa nên họ đi rồi. Nghề này vào vụ thì đủ ăn, chứ bây giờ chỉ đi bắt cua, bắt ốc kiếm chẳng được là bao, không có gì bỏ bụng, tôi đành phải đi thôi!”, anh Quý phân trần.
Đã đi, đã thấy và tận mắt chứng kiến nhưng chúng tôi khó có thể tin được lại có những mảnh đời bước qua cuộc sống với những tháng ngày cùng cực đến vậy. Tôi biết mình chỉ mới thấy được một góc nhỏ mà những người kiếm sống ở cánh rừng này đã phải bám trụ từ đời này qua đời khác. |
Chị Ngái Thị Ánh, 38 tuổi, gia đình từ Kiên Giang lên đây làm nghề bắt ốc, thấy chúng tôi giơ máy chụp hình thì chị vội quay đi. Chồng chị, anh Mai Xuân Ái tay bưng rổ ốc, thổ lộ: “Chúng tôi lên đây hơn chục năm rồi, nhưng nay đây mai đó. Tháng trước chúng tôi ở mạn rừng giáp ranh với Tiền Giang. Ở đó “dễ sống” hơn, nhưng ngặt nỗi nhiều người chặt cây rừng nên chính quyền cấm dân vào đó rồi. Vợ chồng tôi đành phải chuyển ra đây. Hai đứa con tôi bắt ốc nhanh lắm, còn đứa nhỏ, 4 tuổi gửi ông bà nội. Vừa qua thằng bé bị bệnh tôi định cho vợ về thăm cháu, nhưng không có tiền, đành mượn 300 ngàn gửi về nhờ ông bà lo thuốc cho cháu”. Trên khuôn mặt sạm đen với thân hình gầy, mới ngoài 40 tuổi nhưng mặt anh đã lộ những vết nhăn. Dường như, đó là minh chứng rõ nhất cho những tháng ngày lăn lộn, chật vật với miếng cơm manh áo cho gia đình.
Con đường phía trước?
Trong số hàng trăm gia đình bám rừng để sống, chỉ khoảng vài gia đình cho con học biết được cái chữ. Còn lại những người sống ở đây mấy đời cũng có, người từ tỉnh khác chuyển đến được vài năm cũng nhiều, dù ở đâu, đặc điểm chung của họ là ít học và nghèo khó. Họ bám rừng từ đời này qua đời khác. Đời cha bắt cua, rồi đến đời con bắt ốc cứ thế mà qua đi. “Ở nơi đầu sóng ngọn gió này, miếng ăn còn phải đắp đổi qua ngày lấy gì lo cái chữ. Thấy các con sống lay lắt qua ngày, người làm cha làm mẹ cũng đau lòng lắm, nhưng “cái khó nó bó cái khôn” chú à!”, bà Tám Nhánh nói như thể để mặc cho số phận.
Song ở cái nơi “gần bùn, xa con chữ” này, đâu đó cũng có những đứa trẻ được đến trường hay có được công việc “hoành tráng” hơn so với đời ông cha là xin được một “suất” vào làm công nhân. “Thằng Tý nhà tôi vậy mà học được hết lớp hai rồi, được cái nó thông minh. Giờ thì có người để thay gia đình tôi ký giấy ký tờ rồi. Còn cái thằng út, một chữ bẻ đôi cũng không biết, vậy mà cũng đã xin được vào làm công nhân tại một công ty trên thị trấn Cần Thạnh. Cháu thấy có giỏi không?” chú Bảy Rận ở lều kế bên sang chơi góp chuyện. Đó là may mắn của những người được đổi đời thoát khỏi cảnh “nằm sâu trong rừng” để kiếm sống qua ngày.
Có lẽ để có được những cuộc đổi đời xem ra rất khó, không biết con đường nào sẽ đến cho tương lai của họ?
Văn Mạnh
Bình luận (0)