|
Thả hoa tưởng nhớ đồng đội trên sông Thạch Hãn. Ảnh: V.Yên |
Cái rét buốt da thịt của tiết trời tháng 12 dường như không ngăn được bước chân về lại chiến trường xưa của những người cựu chiến binh từng một thời vào sinh ra tử trên chiến trường Thành cổ. Sau 35 năm đất nước thống nhất, với trách nhiệm của người còn sống, những người lính năm xưa hằng năm tìm về đây cùng đồng đội đọc lại lời thề năm xưa: “Đồng đội ơi, còn người còn trận địa”.
Đêm bên dòng Thạch Hãn được thắp sáng bởi hàng trăm ngọn nến, hàng ngàn đèn hoa đăng của những người cựu chiến binh đến từ mọi miền đất nước, đại diện cho hơn 10.000 đồng chí, đồng đội của các đơn vị đã từng tham gia chiến đấu, giữ Thành cổ Quảng Trị tụ hội về đây thay mặt đồng đội nhận “Kỷ niệm chương chiến sĩ bảo vệ Thành cổ”.
Một thời không thể nào quên
Vịn vào gốc tre già ở một góc Thành cổ, Thiếu tướng Cao Xuân Khua – Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 (đơn vị trinh sát đầu tiên trực thuộc Tỉnh đội Quảng Trị) nhìn ra mênh mông hoa lau bạc trắng bãi sông, dòng nước trong xanh hiền hòa trôi xuôi về phía hạ nguồn. Mùa mưa cách đây 38 năm, khó mà hình dung được, bởi sóng ở đáy sông ùng ục húc vào bờ, bom cày đạn xới làm dòng nước ngầu đục. Đêm, những người lính vượt sông trong ràn rạt đạn địch, có người tuột mất phao bơi… đến bờ bên kia đội hình vơi mất một nửa… Hình ảnh ấy khó phai trong ký ức những người lính từng tham gia bảo vệ Thành cổ. Với người cựu chiến binh già Cao Xuân Khua càng khó quên. Bởi chính ông cùng đồng đội, bận ấy đã phải nhiều lần dẫn quân đối mặt với lực lượng địch đông gấp trăm lần. Ông nói với tôi rằng, chiến tranh lửa đạn, cái chết cận kề nhưng người lính Thành cổ ngày ấy không hề bi lụy.
Đặc biệt, từ giờ phút chứng kiến lời thề nghiêm trang của C trưởng C3 Nguyễn Văn Dụ trong giờ phút quyết tử ở chốt ngã ba Long Hưng – lũy thép Tây Nam Thành cổ vào một ngày trung tuần tháng 6: “Còn Đại đội 3, còn ngã tư đường nhựa”, một bầu khí nóng truyền đi trong huyết quản mỗi chiến sĩ giữ thành với lời thề quyết tử: “Còn người, còn trận địa”. Và từ khoảng thời gian này trở đi, cuộc chiến trở nên quyết liệt, căng thẳng gấp bội phần. Trong những ngày này, Tiểu đoàn 8 của ông và các đơn vị bạn hàng ngày phải đánh trả gần 50 đợt tập kích của địch bằng bộ binh, pháo binh, máy bay B52 hòng tái chiếm Thành cổ. Có lúc họ phải nhảy ra khỏi chiến hào dùng thủ pháo lựu đạn và cả báng súng lưỡi lê hất địch xuống bờ thành, có lúc đánh thọc sườn trong thế cài răng lược, có lúc bắn tỉa, lúc tập trung hỏa lực giữ từng tấc đất, ngọn cỏ; có ngày phải ngâm mình trong dòng nước lũ ngập quá thắt lưng, ăn lương khô; nhiều đêm phải thay nhau tát nước tràn hầm, cả tiểu đoàn không một ai chợp mắt… Sau những ngày giao tranh ác liệt, lực lượng ta hao hụt nhiều, có đơn vị vào chiến trường với con số hàng trăm, sau trận chiến còn chưa tới chục người. Dù không tương quan về lực lượng, vũ khí, nhưng nhiều chiến sĩ của ta đã bám trụ chiến đấu, hy sinh đến hơi thở cuối cùng.
Thành cổ hôm nay
Trong miên man màu trắng hoa lau, dưới nền trời đêm tĩnh lặng, hàng trăm con người ngồi bên nhau trên vạt cỏ đẫm sương đêm. Nhiều người đã không cầm được nước mắt khi thắp nén nhang, dâng món đặc sản quê nhà gửi từ đất mẹ đến các anh. Cụ Lưu (82 tuổi) ở phố Lim Ngưu (TP.Hà Nội) rưng rưng nước mắt: “Cháu nhà tôi năm đó 19 tuổi, đang theo học đại học ở Hà Nội thì tình nguyện nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Ngày đi nó chỉ kịp để lại lá thư ở ga Hàng Cỏ, sau đó bà con đưa về giúp”. “38 năm nay, mỗi khi tháng 12 về, vợ chồng tôi chỉ biết thắp nén nhang bái vọng trời Nam. Đến hôm nay mới có điều kiện về nơi con nằm lại…”.
Thành cổ hôm nay màu xanh cỏ cây đã liền miệng hố bom. Đó là cuộc phục sinh trên hoang tàn gạch vỡ. Trên màu xanh ngút ngàn của cỏ cây là một tượng đài sừng sững. Tượng đài – biểu tượng nấm mồ chung của hơn 10.000 anh hùng liệt sĩ đã anh dũng ngã xuống vì sứ mệnh thiêng liêng của tổ quốc. Ở đó không có hận thù, chỉ có khát vọng hòa bình được viết lên trời xanh bằng một tháp bút hình ngọn lửa thể hiện một nét hào hoa rất riêng trong ngút ngàn khốc liệt bi tráng của chiến trường ngày ấy. Bên dưới nấm mồ là hành trang đơn sơ của người lính với chiếc bi đông, mũ tai bèo, dép cao su, ba lô bạc sờn… Đơn sơ như lời một nhà văn từng viết: “Những người lính hi sinh nơi đây không phải để được phong anh hùng và hoa tươi dâng trước mộ. Họ chết cho một lẽ duy nhất là khát vọng sống, là đằng sau họ cuộc sống sẽ được thiết kế trở lại trên sự ấm no, công bằng…”.
Đêm Thành cổ yên ả như lời ru của mẹ. Những mái đầu bạc trắng phong sương, những nếp gấp của thời gian in sâu trên từng gương mặt, giờ như tươi giãn ra bởi được gặp lại đồng đội, được ngồi lại trên nền gạch vỡ xưa say sưa hát về đồng đội, để “sống” cùng đồng đội trong “81 ngày đêm nhật ký cuộc đời”.
“Các anh nằm xuống, thi thể mai táng thành một nấm mồ chung, có nhiều đồng đội đã được tìm thấy nhưng hầu hết đều chưa biết tên, nhiều đồng đội vẫn còn đâu đó chưa tìm được…”, người cựu chiến binh già Cao Xuân Khua trải lòng mình. Tôi đứng bên tượng đài Thành cổ, lặng lẽ cùng ông ngắm bến thả hoa phía bắc tượng đài, đối diện phía bên kia sông Thạch Hãn là bến Nhan Biều, điểm vượt sông đi vào lịch sử – có lẽ đây là khúc rộng nhất để rồi từ đây dòng sông tha thiết chảy về phía hạ nguồn mang theo phù sa cùng hình hài của hàng ngàn chiến sĩ dũng cảm nằm lại với lòng sông, nằm lại với mảnh đất cổ thành. Mỗi năm vài bận, ông cùng đồng đội từ khắp mọi miền đất nước về đây tìm, xác định tên tuổi, quê hương cho từng đồng đội. Nỗi niềm đau đáu của những người cựu chiến binh già đi qua 81 ngày đêm giữ Thành cổ khốc liệt cũng là nỗi niềm của những người dân sống trên mảnh đất này. Ngày hôm nay, trong thời bình, có những người dân vẫn lặng lẽ băm nát từng gốc cây, ngọn cỏ, sẵn sàng đào xới ngôi nhà của mình – tài sản đáng giá nhất che nắng mưa cho cả gia đình để tìm kiếm và cất bốc hài cốt các anh.
Phan Vĩnh Yên


Bình luận (0)