Nhịp cầu sư phạmChuyện học đường

Thêm nhiều văn bản mới vào sách giáo khoa ngữ văn theo chương trình mới

Tạp Chí Giáo Dục

Ch tính riêng sách giáo khoa (SGK) môn ng văn lp 12 ca b Chân tri sáng to, theo thng kê ca các tác gi biên son, có gn mt na (gn 50%) s văn bn mi đưc la chn đưa vào sách. Vic b bt nhng tác phm quen thuc trưc đây trong các b SGK ng văn ca chương trình mi khiến nhiu ngưi t ra tiếc nui.

Hình 1: Số văn bản có trong sách giáo khoa cũ và số văn bản mới được đưa vào 

Thực tế này có gây thiệt thòi cho người học và cần hiểu thế nào cho đúng? Giáo viên và các tác giả soạn sách nói gì?

Tăng thêm nhiu văn bn mi

Trên mạng xã hội Facebook mới đây lan truyền một câu chuyện được nhiều người quan tâm bình luận. Đó là lời than thở của các nhân vật như Lão Hạc, Chí Phèo, Bá Kiến, nhà văn Hoàng (trong các truyện ngắn của Nam Cao); chị Dậu, Nghị Quế (trong tiểu thuyết của Ngô Tất Tố)… vì không được “xuất hiện” trong một số bộ SGK của chương trình mới. Điều khiến những người học văn theo chương trình cũ trước đây quan tâm vì các tác phẩm mà họ học (từ văn học dân gian đến văn học hiện thực phê phán, văn học kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ…) đã quá quen thuộc trong tâm thức. Tên những nhân vật trong các tác phẩm, thậm chí những câu nói của nhân vật cũng trở nên thành bất tử, điển hình.

Nếu làm phép thống kê việc lựa chọn tác phẩm đưa vào SGK của 3 bộ sách (Chân trời sáng tạo, Cánh diều, Kết nối tri thức với cuộc sống) ở bậc THPT sẽ thấy sự khác biệt, có tác phẩm này và vắng tác phẩm kia. Chẳng hạn, với kiệt tác Chí Phèo của Nam Cao thì bộ Kết nối tri thức với cuộc sống đưa vào SGK lớp 11. Trong khi đó, nếu học sinh học bộ Chân trời sáng tạo (gồm cả 3 lớp 10, 11, 12) sẽ không được tiếp xúc văn bản này. Hay tác phẩm tiêu biểu cho nhận định của Vũ Ngọc Phan “gần đạt đến sự toàn thiện, toàn mỹ” về tập truyện ngắn Vang bóng một thời là Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) cũng có bộ sách này chọn, bộ sách kia không chọn. Với “Lão Hạc” (Nam Cao) – truyện ngắn cảm động về tình thương của người cha với đứa con trai – thì bộ Chân trời sáng tạo đưa lên lớp 12, hai bộ sách còn lại không chọn.

Hình 2: Tỷ lệ văn bản Việt Nam và văn bản nước ngoài

Văn học kháng chiến (chống Pháp và Mỹ) giai đoạn từ 1945 đến 1975 với hàng loạt các tác phẩm gắn liền với lịch sử, chính trị, xã hội… như Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)… cũng đã vắng bóng trong các bộ SGK chương trình mới.

Chỉ tính riêng SGK ngữ văn lớp 12 của bộ Chân trời sáng tạo, có thể thấy tình hình lựa chọn văn bản mới như thế nào. Theo đó (hình 1), tổng số văn bản mới đưa vào SGK mới gần ngang bằng với số văn bản cũ của SGK cũ, tỷ lệ 17/18 văn bản.

Đc trưng chương trình mi, tác phm văn hc ch là ng liu

Cần phải hiểu thực tế trên với nhiều lý do. Thứ nhất, nó phù hợp với quan điểm và đặc trưng của chương trình mới. Đó là ngoài 6 tác phẩm bắt buộc (gồm Nam quốc sơn hà – tương truyền của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu và Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh), các bộ sách được lựa chọn tác phẩm theo tiêu chí (tự chọn bắt buộc, hoặc tự chọn) trong gợi ý của chương trình tổng thể môn ngữ văn. Vả lại, quan điểm của chương trình mới là không thật quá chú trọng đến việc dạy học hiểu (nội dung, nghệ thuật) của từng/một tác phẩm nào mà là dạy kỹ năng (gồm đọc, viết, nói và nghe) của tác phẩm theo nhóm thể loại (thơ, truyện, kịch, ký…). Các tác phẩm được chọn để học xem như là ngữ liệu cho việc dạy học. Học tác phẩm nào là để có “chìa khóa” kỹ năng “mở” ra “cánh cửa” giúp lĩnh hội các tác phẩm đồng dạng khác. Cho nên việc chọn văn bản nào để dạy học chưa phải là vấn đề quá quan trọng.

Thứ hai, việc đa dạng trong lựa chọn tác phẩm cũng giúp cho các bộ sách phong phú hơn và sinh động hơn. Cùng với việc người dạy được quyền chọn lựa tác phẩm của các bộ sách giúp cho việc dạy học văn sẽ hứng thú hơn, tính “mở” của chương trình sẽ nhiều hơn. ThS. Nguyễn Văn Trung (giáo viên dạy văn Trường THPT Phú Nhuận, TP.HCM) nêu quan điểm: “Không nhất thiết học sinh phải được học những tác phẩm được coi là kinh điển bấy lâu nay. Chỉ cần giáo viên giới thiệu, và nhiệm vụ học sinh là phải tự tìm đọc, tự khám phá”. Nhiều giáo viên THPT cũng cho rằng: Nếu văn học gánh vác thêm nhiệm vụ của lịch sử, chính trị thì người học sẽ cảm thấy rất nặng nề. Lịch sử có lịch sử lo, giáo dục đạo đức chính trị là trách nhiệm của môn học khác. Đó cũng là lý do chính đáng để chương trình giảm tải những tác phẩm bấy lâu nay có thiên hướng này!

Hình 3: Tỷ lệ các thể loại văn bản đọc hiểu trong sách giáo khoa lớp 12 chương trình mới

Tôi nhớ trong một lần hầu chuyện với GS.NGND Hoàng Như Mai (nguyên Chủ tịch Hội Nghiên cứu và Giảng dạy văn học TP.HCM, tác giả biên soạn SGK chương trình cũ trước đây), có kể lại câu chuyện như sau: Trong một lần thầy làm nhiệm vụ đại diện để tiếp một phái đoàn người Pháp sang Việt Nam tìm hiểu về giáo dục. Khi họ thắc mắc vì sao SGK văn học Việt Nam viết nhiều về nội dung kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ… Thầy đã trả lời: “Đất nước chúng tôi vừa trải qua chiến tranh, chúng tôi phải dạy cho thế hệ con cháu biết tự hào về cha ông, về dân tộc…”. Bây giờ chiến tranh đã lùi xa qua lâu rồi, cũng nên lựa chọn văn bản mới để phù hợp với tâm lý lứa tuổi, phù hợp xu hướng hội nhập toàn cầu.

Thứ ba, với đặc trưng chương trình mới của môn ngữ văn là tăng tính ứng dụng thực tiễn; lựa chọn những văn bản hiện đại, gần gũi với tâm lý lứa tuổi; nên việc giới hạn lựa những tác phẩm quen thuộc bấy lâu nay là hợp lý. TS. Nguyễn Thị Hồng Nam (đồng tác giả bộ sách Chân trời sáng tạo) trong lần giới thiệu SGK ngữ văn lớp 12 cho các trường THPT tại TP.HCM hồi tháng 3-2024 cho rằng: “Quan điểm của chương trình mới là giảm bớt những tác phẩm văn học, đưa thêm các văn bản thông tin, văn bản nhật dụng. Nên không thể lựa chọn hết các tác phẩm hay vào sách được”.

Vả lại, việc đưa thêm các văn bản nước ngoài, văn bản nghị luận, văn bản thông tin mới vào SGK mới cũng làm cho SGK bị “quá tải”. Điều này đòi hỏi các tác giả phải giảm bớt các văn bản vốn quen thuộc bấy lâu nay. Dưới đây là bảng thống kê của TS. Nguyễn Thị Hồng Nam về tỷ lệ văn bản Việt Nam và văn bản nước ngoài (hình 2) và tỷ lệ các thể loại văn bản đọc hiểu (hình 3) trong SGK lớp 12 chương trình mới.

Ngoài ra, chính việc đề kiểm tra đánh giá môn ngữ văn không cho văn bản đã học trong chương trình có tác dụng rất lớn đến ý thức tìm đọc văn bản ngoài SGK của giáo viên và học sinh. Và việc tìm đọc các tác phẩm kinh điển không được chọn vào SGK là ưu tiên hàng đầu của thầy và trò. Cho nên, chớ lo lắng các tác phẩm từng “vang bóng một thời” không được đưa vào SGK sẽ bị… chìm vào quên lãng!

Trn Ngc Tun  

Bình luận (0)