Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Theo dấu giếng cổ trăm năm: Kỳ 1: Bí ẩn những chiếc giếng cổ

Tạp Chí Giáo Dục

Giếng Bá Lễ ở Hội An – một trong những giếng cổ nổi tiếng được xây theo kỹ thuật Chăm

Một số nhà nghiên cứu khảo cổ cho rằng, giếng cổ ở Quảng Nam, Đà Nẵng là của người Chăm xưa để lại. Còn theo lời những người cao tuổi sống ở vùng đất này, các chiếc giếng cổ với kết cấu độc đáo ấy đã có từ hàng trăm năm trước, từ thời tổ tiên đến khai canh lập địa…
Độc đáo giếng cổ dưới chân Hải Vân
Làng chài Nam Ô thuộc quận Liên Chiểu (Đà Nẵng) nằm nép mình bên chân đèo Hải Vân bốn mùa sóng vỗ một thuở rùng rợn, ám ảnh người đi đường bởi những hùm beo. Nay, nơi đây không chỉ được các ngư dân trong vùng chọn làm nơi cư ngụ, mà còn là chốn dừng chân nghỉ ngơi lý tưởng cho kẻ bộ hành trên đường ngược Bắc xuôi Nam sau những ngày vượt núi trèo đèo đầy mệt mỏi. Dẫn chúng tôi đi vòng quanh làng chài Nam Ô, ông Đặng Phương Trứ, một nhà nghiên cứu văn hóa địa phương khoát tay, nói: “Muốn tìm hiểu về nguồn gốc văn hóa giếng cổ ở Nam Ô thì phải “nghe, sờ, thấy” mới mong chạm được chút gì vào “mép ngoài” giá trị văn hóa của tiền nhân”. Con số thống kê của ngành văn hóa phường Hòa Hiệp Nam cho hay: Thuở xưa, làng chài Nam Ô có 6 giếng cổ hình vuông được tiền nhân tạo lập, phân bố đều khắp theo 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc, khoảng cách mỗi giếng từ 200 đến 300 mét. Qua quá trình đô thị hóa, 1 trong số 6 giếng ấy đã bị san bằng, vùi sâu trong lòng đất. Hiện còn 4 cái vẫn nguyên vẹn, bao gồm: Giếng Đình, giếng Thành Cung, giếng Cồn Trò và giếng Lăng. Mỗi giếng nước gắn liền tên gọi với ý nghĩa riêng nhưng có điểm chung đều tạo nên nét văn hóa độc đáo của một làng chài nép mình bên chân đèo Hải Vân hùng vỹ.
“Theo những người cao tuổi sống ở vùng đất này, giếng cổ do người Chăm xây dựng. Đã có rất nhiều đoàn khảo cổ đến tìm hiểu nhưng đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu khoa học nào chứng minh cụ thể về niên đại cũng như sự ra đời của chúng. Chỉ biết rằng, đó là nơi sinh hoạt tâm linh của người dân xứ biển Nam Ô bao đời nay”, ông Đặng Phương Trứ nói.
Những chiếc giếng này được xây dựng theo kết cấu khá độc đáo. Tất cả đều mang dáng dấp hình vuông, được ghép bằng những tấm đá xanh bề dày 0,1 mét, ngang 1 mét và cao 0,6 mét. Cứ 4 tấm đá như thế, người xưa ghép thành một ô vuông, mỗi cạnh 1 mét ăn trong khớp rãnh được tạo sẵn. Từ đáy giếng, từng ô vuông đặt chồng lên nhau trong khe âm dương lên tới thành giếng. Mỗi giếng có từ 12-14 lớp ô vuông đá tảng. 4 lớp trên cùng khép vào khe của 4 trụ đá vuông 0,2 x 0,2 mét, gọi là trụ giếng. Trên mỗi đầu trụ giếng khắc sâu, chạy viền thành cổ trụ. Trên thành giếng là 4 thanh đá khác dài 1 mét đặt nằm ngang, 2 đầu thanh đá đóng vào mộng được đục sẵn trên vai trụ giếng. Đáy thành giếng có khe áp vào đầu tấm đá dưới nền thành giếng với kết cấu chắc chắn, bền vững. Cũng theo ông Đặng Phương Trứ, từ ngày nhỏ, ông vẫn thường được nghe các bậc tiền nhân kể lại, thuở xưa để đào được một chiếc giếng có nước ngọt, mát, dân làng phải thuê thầy địa lý thăm dò mạch nước. Để xây dựng kiểu giếng đá vuông, nhân dân trong vùng phải lấy đá xanh từ núi Trường Định, cách làng Nam Ô gần 10km, đem về chế tác thành từng tảng vuông vức. Đó là lý do vì sao qua hàng trăm năm những chiếc giếng vẫn không hề bị khô cạn trong mùa hè, nước ngọt ấm về mùa đông và mát về mùa hè. Điều đặc biệt, người dân mỗi buổi làm đồng hay ra biển trở về giữa trưa đứng bóng, ghé chân lại múc nước lã từ giếng này uống, không cần đun sôi vẫn không hề bị đau ốm.
Đa dạng giếng cổ Hội An
Cách làng chài Nam Ô tầm 50 cây số, phố cổ Hội An – nơi một thời tấp nập giao thương của người dân phố Hội cùng các thương gia Nhật Bản, Trung Hoa… cũng quần tụ rất nhiều giếng cổ đa dạng kiểu dáng và kết cấu. Theo thống kê của Trung tâm Quản lí bảo tồn di tích Hội An, trên địa bàn thành phố hiện có khoảng 80 giếng cổ, phân bố tập trung chủ yếu ở bờ Bắc sông Đế Võng (thuộc hai phường Cẩm Thanh và Thanh Hà), trong khu phố cổ và một số phân bố rải rác ở những nơi khác. Tương truyền, những giếng cổ này được người Chăm xây dựng vào thế kỉ thứ XV và một số giếng do chính người Việt sau này học hỏi từ kiến trúc của người Chăm xây nên với ba hình dáng cơ bản: Hình tròn (chiếm 63%), hình vuông (17%), trên tròn dưới vuông (15%). Mặc dù được thiết kế bởi nhiều hình dáng khác nhau nhưng tất cả các giếng này đều có một đặc điểm chung đó là dưới thành gạch được cán một khung gỗ bằng lim rộng bản. Thành giếng được xây dựng từ những viên gạch đan xen xếp chồng lên nhau mà không dùng chất kết dính, tạo khe hở giữa từng lớp gạch, nhờ đó nước trong lòng đất cứ thế ứ ra từ những khe hở tạo cho giếng cổ một mực nước quanh năm duy trì trong chế độ bão hòa. Các nhà nghiên cứu khảo cổ cho rằng, có thể nó được sinh ra từ thế kỷ thứ VIII-IX. Vào thời kỳ này, nước giếng từng là một trong những loại hàng hóa khá độc đáo mà người xưa dành để bán cho các thuyền buôn Ba Tư, Ả Rập. Không bán lấy tiền, mà dùng để trao đổi lấy hàng hóa, sau đó hàng hóa này được đem ra phố bán lại cho người bản xứ.
Điều đặc biệt, ở trên mỗi giếng này đều có một bàn thờ. Theo người dân phố Hội quan niệm, mỗi cái giếng đều có một vị thần bảo hộ cho nguồn nước ngọt lành. Bởi thế, người đến gánh nước vào ngày rằm, mùng 1 đều thắp nén nhang nhớ ơn vị thần này. Cùng với quan niệm đó, nhiều giai thoại dân gian về công dụng nước giếng cổ được truyền hết đời này sang đời khác. Dẫu cho đến bây giờ chưa có một căn cứ khoa học nào để chứng minh điều đó có thật. Nhưng với người dân sống hàng bao đời nay ở phố Hội, thậm chí cả những nhà hàng ẩm thực dành cho khách Tây vẫn dùng nguồn nước từ giếng này để chế biến các món ăn đặc sản nổi tiếng như Cao lầu, chè Xí mà…
Bài, ảnh: Phan Vĩnh Yên
Kỳ 2:  “Đặc sản” độc nhất vô nhị ở miền Trung
Trong kí ức những người dân làng chài Nam Ô và dân gốc Hội An, nơi có nhiều giếng cổ được xây dựng thì nguồn nước không chỉ phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày mà còn là nguyên liệu đặc biệt trong việc chế biến các món ẩm thực đặc trưng của họ.
 

Bình luận (0)