Y tế - Văn hóaVăn hóa nghệ thuật

Thi sĩ Hàn Mặc Tử: Khát khao yêu, mãnh liệt sống

Tạp Chí Giáo Dục

Mộ của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Ảnh: K.TUẤN

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà thơ Hàn Mặc Tử (12-9-1912/12-9-2012), cho phép tôi được viết đôi điều tâm đắc về trái chín của mùa, trái chín của thơ Hàn Mặc Tử để độc giả cùng chia sẻ, cùng trân trọng và mến yêu hơn thi sĩ tài hoa bạc mệnh này.
Một hiện tượng thơ Việt Nam
Thơ Hàn Mặc Tử quả là một hiện tượng thơ Việt Nam những năm giữa thế kỷ 20. Hiện tượng như trái chín và cây mùa. Từ khi thơ Hàn xuất hiện, những hiện tượng xôn xao từ việc Hàn Mặc Tử thơ  bệnh, thơ điên, thơ loạn; Hàn Mặc Tử giai thoại; Hàn Mặc Tử thơ chúa, thơ đạo. Bao nhiêu vấn đề thơ Hàn mà người đời là các thi nhân, các nhà phê bình, các nhà xã hội học nhìn vào đấy gọi là trường phái thơ Hàn, thơ Hàn là thơ siêu thực, thơ hư vô. Nhưng theo tôi, thơ Hàn bắt rễ sâu vào đời sống vì  rất sống rất tình.                                                                                                        
Hàn Mặc Tử sống vừa trọn chẵn 26 năm. 26 năm của tuổi thanh niên đã sớm khởi phát tài năng đang đi tới khẳng định thiên tài. Từ tài năng của một thần đồng đang ngồi trên ghế nhà trường mà đã có thơ viết về Gái ở chùa: Nhạt mùi son phấn say mùi đạo/ Chán cảnh phiền ba mến cảnh chùa/ Dì nguyệt trớ trêu lòng dạ thiễm/ Trăm năm nỡ để thiệt thòi hoa. Thơ của tuổi 14, Hàn Mặc Tử đã có cái ý nghĩa nhìn đời và sống cảm thông với người, lại là người con gái ở chùa.Vậy mà trước đây có người viết văn học sử đã cho thơ Hàn “Ngay từ nhỏ đã có âm điệu thiêng liêng hư vô trong khi máu cuồng sắp rền vang dưới ngòi bút”. Ý nói thơ Hàn Mặc Tử không có đời, không có thực, chỉ có thiêng liêng, chỉ có máu trong thơ cuồng. Theo tôi không phải vậy. Hãy nghe mấy câu thơ trong bài thơ Bẽn lẽn của Hàn thời tuổi trẻ cũng là thời bệnh hiểm nghèo đang đến dần với số phận nhà thơ: Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi/ Hoa lá ngây tình không muốn động/ Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi!
Đến tập thơ Máu cuồng và hồn điên đó là thời kỳ bệnh của thân thể nhà thơ mộng như nâng xác ra khỏi thế giới. Trăng không còn trăng của bẽn lẽn. Suối không còn suối của trăng tắm. Thời kỳ máu và điên, hồn và loạn, nếu nói là điên cuồng, nói là ảo loạn cũng đúng thôi, nhưng đừng quên nhà thơ trong cơn điên, cơn đau như hư ảo mà còn nghe mình chạy đuổi trăng trên đất, còn biết mình khạc máu từ miệng ra, biết thân thể mình còn chạm tay vào không gian vào thế giới. Không bài nào trong thơ  Hàn Mặc Tử trong cơn đau mà không nói đến không gian. Không gian tiếng chim hót, không gian ánh trăng thơm, không gian hoa lý nở. Trong khi đó, nhà thơ đêm ngày ngồi trong chiếc buồng nhỏ tối với chiếc cửa sổ bằng bàn tay. Bát cơm đưa qua cửa sổ, người nói qua cửa sổ, người bệnh từng lúc lịm sau cửa sổ. Rồi người bệnh từng lúc kêu trong mơ hồ hư thực: Máu tim ta tuôn ra làm biển cả/ Mà sóng lòng dồn dập như mây trôi/ Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ/ Dâng cao lên, cao tột tới tận trời. Không gian nâng cái chết của nhà thơ lên, rồi cũng chính từ không gian nhà thơ vượt khỏi cái chết hư vô đòi nhìn xuống cõi sống của mình: “Ta ở cõi cao nhìn trở xuống? Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm”.
Yêu và sống mãnh liệt
Từ cõi chết, nhà thơ vụt dậy đến với cõi sống không gian. Cõi sống không gian làm nhà thơ nhớ về một Đà Lạt trăng sao đắm đuối, nhớ về một Vỹ Dạ nắng xanh, thuyền đậu, khói mơ. Bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ viết trong cơn đau thương mà như một hồi sinh của tâm hồn qua đau thương qua cõi chết nay về với bến đậu. Vỹ Dạ là hồn quê, hồn không gian làm nên tươi tắn và mãnh liệt sống của thơ Hàn. Thơ Hàn khát khao một khuôn mặt, khát khao một lá trúc, khát khao về một cõi sống thanh cao, cứng cỏi.
Tình yêu là một trong những niềm khát khao của Hàn Mặc Tử. Với Xuân Diệu, trăng là vú mộng, là tình duyên, nhưng Hàn Mặc Tử với trăng, trăng là nàng, trăng là gái hồng nhan, nên trăng ở trong thi sĩ, trăng trong miệng thi sĩ, trăng của một nỗi khát khao: Cả miệng ta trăng là trăng/ Cả lòng ta vô số gái hồng nhan. Hàn Mặc Tử chỉ có trăng để được gặp nàng: Trăng bay lả tả ngã lên cành vàng/ Tới đây là nơi tôi gặp được nàng.
Trường hợp chỉ nghe một cái tên Hoàng Thị Kim Cúc nào đó ở rất xa yêu thơ mình làm nhà thơ bàng hoàng bối rối. Thơ viết về Cúc như thường trực có mặt trong thơ Hàn. Cúc đẹp một hồn sương một hồn Cúc trong xiêm áo: Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá/ Muốn ôm hồn Cúc ở trong sương. Rồi Mai Đình, rồi Mộng Cầm, những tên đẹp, hồn đẹp như tiên. Trong nhà thơ hồn như khi có, hồn như khi không, hồn nhà thơ khi chới với, khi bềnh bồng, khi thắt ngang lưng, khi nước mắt, khi giọng cười. Khao khát trong nhà thơ như trút linh hồn, như tan băng giá, như đi tìm nụ tầm xuân. Trong Hàn một nỗi day dứt: Không yêu làm sao sống! Và nhà thơ nguyện cầu: Đến chết vẫn còn yêu!          
Hãy nghe nhà thơ Hàn Mặc Tử giải nghĩa yêu cho mình, giải nghĩa yêu cho bạn, giải nghĩa yêu cho chúng ta và cả cho hậu thế: Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều/ Để nghe dưới đáy nước hồ reo/ Để nghe tơ liễu run trong gió/ Và để nghe trời giải nghĩa yêu. Nếu trời giải nghĩa yêu thì còn gì là trời! Cái hay của câu thơ về yêu, là ở những câu cảnh trên mặt đất, cảnh hồ, cảnh  liễu, những nói, những lặng thinh. Theo tôi đây là những câu thơ hay nhất của thơ tình Việt Nam.
TRÚC CHI
Tôi nghĩ chỉ một việc giữa cái chết đang hành hạ nhà thơ hàng ngày mà vẫn làm thơ, mà làm thơ hay – là ta biết nhà thơ thừa sức sống rồi. Hàn Mặc Tử khát khao yêu và mãnh liệt sống là vậy!
 

Bình luận (0)