1. Trong phần chú thích hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Mẹ Tơm” (tháng 7-1961), nhà thơ Tố Hữu viết: “Sau 19 năm xa cách, tôi lại về Hanh Cù, Hanh Cát – làng ven biển Hậu Lộc, Thanh Hóa – nơi ngày xưa có bà mẹ Tơm rất nghèo đã nuôi giấu chúng tôi, mấy anh em trốn tù về hoạt động. Mẹ Tơm có hai người con trai đều là đảng viên cộng sản, ngày ngày đi cúp tóc để nuôi nhà và nuôi đồng chí; về sau, cả hai anh đều bị bắt và tra tấn, nhưng đều một mực không khai cơ quan và cán bộ Đảng”. Một miền quê nghèo, một “tổ ấm” mái nhà tranh nặng ân nghĩa của mẹ Tơm không bao giờ quên được trong tâm khảm của nhà thơ! Vì vậy, dù công việc bộn bề, nhưng tác giả vẫn dành thời gian trở về thăm mẹ; thăm mảnh đất một thời nuôi giấu người cán bộ cách mạng với tấm lòng thủy chung, son sắt…
Nhà lưu niệm mẹ Tơm tại Hậu Lộc (Thanh Hóa)
2. Mở đầu bài thơ là thời gian hiện tại trong khung cảnh náo nức của một vùng quê ven biển thanh bình: Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa/ Một buổi trưa, nắng dài bãi cát/ Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa… Giữa đất trời bao la, bất chợt tác giả bồi hồi nhớ ngày xưa đã qua và đan xen cùng thực tại bởi nỗi nhớ ùa về: Mười chín năm rồi, hôm nay lại bước/ Đoạn đường xưa, cát bỏng lưng đồi/ Ôi có phải sóng bồi thêm bãi trước/ Hay biển đau xưa rút nước xa rồi? Cũng cồn cát trắng ấy, cũng đoạn đường cát cháy ngày xưa ấy; giờ đã đổi khác, làm ngỡ ngàng người con đi xa trở về. Nay không còn nỗi khổ đau một thời nô lệ. Hướng mắt về phía biển, tác giả trở về thời gian hiện tại khi thầm gọi tên những địa danh quen thuộc thuở nào: Hòn Nẹ ta ơi! Mảng về chưa đó/ Có nhiều không con nục, con thu?/ Chào những buồm nâu thuyền câu Diêm Phố/ Nhớ nhau chăng, hỡi Hanh Cát, Hanh Cù? Liên tiếp là những khổ thơ ghi dấu ấn của thời gian hiện tại; bởi tác giả đang đi trên con đường của miền quê mẹ Tơm; của đồng bào, đồng chí từng che chở, nuôi giấu một thời: Tôi đã về đây, hỡi các anh/ Hỡi rừng sa mộc, khóm dừa xanh/ Hỡi cồn cát trắng rung rinh nắng/ Hỡi những vườn dưa đỏ ngọt lành! (…) Con đã về đây, ơi mẹ Tơm/ Hỡi người mẹ khổ đã dành cơm/ Cho con, cho Đảng, ngày xưa ấy… Ta nghe cả tiếng reo náo nức của một người con trở về thăm xóm làng thân yêu sau bao năm xa cách. Giọng thơ hồ hởi, nhịp thơ dồn dập cùng với điệp từ “Hỡi” đã làm sống động thêm tình cảm ấy. Hình ảnh mẹ Tơm được nhắc lại trong nỗi nhớ sâu xa của tác giả với tâm trạng xúc động khi tiếng reo vui bật dật trong lòng. Vẫn thời gian hiện tại, cuộc sống mới xanh màu trên quê hương mẹ Tơm. Nơi túp lều của mẹ Tơm ngày xưa giờ đây mọc lên ngôi nhà thơm mùi vôi mới. Cảnh vật đổi thay đến ngỡ ngàng: Nhà ai mới nhỉ, tường vôi trắng/ Thơm nức mùi tôm nặng mấy nong/ Ngồn ngộn sân phơi khoai dát nắng/ Giếng vườn ai vậy, nước khơi trong? Một loạt hình ảnh nối tiếp nhau (nhà ai mới, tường vôi trắng, thơm phức mùi tôm, giếng vườn ai…) cho ta thấy sức sống mới của một vùng quê sau hòa bình lập lại. Cái nghèo cái khổ đã lùi xa; cái no ấm, bình yên đã về với con người trên mảnh đất nghĩa tình, nhân hậu. Một cuộc gặp bất ngờ, thú vị, đầy xúc động giữa tác giả và cô chủ nhà: Bởi ngày tác giả cùng các đồng chí từ giã gia đình ra đi, bé mới lên một tuổi và bây giờ gần 20 năm mới gặp lại: Ngơ ngác trông quanh lạ mấy lần/ Hỏi thăm cô gái má bồ quân/ Mái đầu tóc xõa xanh bên giếng/ Vâng đúng nhà em, bác nghỉ chân/ Ô kìa, cô bé nói hay sao/ Nhà của tôi, ai lại hỏi chào… Với hình ảnh cô gái tuổi đôi mươi, “má bồ quân”, “tóc xõa xanh bên giếng”, tác giả muốn nói điều gì với bạn đọc? Phải chăng, đó là hình ảnh của sức sống mới, sức trẻ mới đang bừng lên nơi miền quê nghèo một thuở; nay có cuộc sống ấm no, thanh bình. Cuộc sống mới đang mở ra những chân trời mới. Mở ra bao hy vọng cho con người, cho quê hương qua hình ảnh: “Sóng bồi thêm bãi, thuyền thêm bến/ Gió lộng đường khơi, rộng đất trời”. Tác giả vô cùng xúc động khi biết được mẹ Tơm và bác trai đã mất! Thời gian quá khứ kéo gần lại để cho ta cảm nhận rõ hơn cảm xúc chợt dâng trào: Ông mất năm nao, ngày độc lập/ Buồm cao đỏ sóng, bóng cờ sao/ Bà về năm “đói”, làng treo lưới… Từ trong tâm cảm, tác giả xót thương cho mẹ Tơm; ngày từ biệt, mẹ đang còn sống; còn nhường cơm sẻ áo nuôi người cán bộ cách mạng, bất chấp tất cả cũng vì cách mạng. Nay con trở về trong hòa bình, trong tự do thì mẹ không còn…
3. Câu chuyện về mẹ Tơm được tái hiện bằng khoảng thời gian hồi tưởng, hoài niệm không thể phai mờ. Đó là một khoảng thời gian quá khứ ám ảnh. Tác giả đưa chúng ta ngược dòng thời gian, cách đây 19 năm đằng đẵng, 19 năm của một thời gian khổ. Người dân vùng biển Hậu Lộc này thuở ấy tuy nghèo nhưng giàu lòng yêu thương cách mạng: Bâng khuâng chuyện cũ: Một chiều thu/ Mười mấy năm xưa mấy bạn tù/ Vượt ngục, băng rừng, tìm mối Đảng/ Duyên may, dây nối đất Hanh Cù… Tác giả cùng bạn tù vượt khỏi ngục tù thực dân Pháp, tìm về nơi đây để tiếp tục hoạt động cách mạng. Cái “duyên” của người cán bộ cách mạng là gặp mảnh đất giàu truyền thống đấu tranh, gặp được người lao động, người dân nghèo nhưng luôn tin yêu cách mạng. Một túp lều tranh nơi “cồn vắng”, nơi ấm áp tình người. Đó là ngôi nhà của mẹ Tơm, nơi nuôi giấu người cán bộ cách mạng. Nhà chật nhưng lòng người rộng rãi, cũng chính là chỗ dựa, là tổ ấm đi về của những người cán bộ cách mạng đang hoạt động bí mật: Đầu thôn, cồn vắng, túp lều rơm/ Tổ ấm chim về. Có mẹ Tơm/ Hai đứa trai ngày đi cúp dạo/ Nồi khoai sớm tối lót thay cơm… Vậy đó, mẹ Tơm lặng thầm nuôi giấu, lặng thầm giữa đêm hôm khuya khoắt nơi vắng vẻ, đầy bất trắc; không nề hiểm nguy rình rập để canh giấc ngủ cho người cán bộ cách mạng bằng cả tấm lòng yêu thương như con của mình. Hình ảnh so sánh “Buồng Mẹ – buồng tim – giấu chúng con” cho chúng ta cảm nhận được điều gì? “Buồng tim” là nơi cất giấu kín đáo nhất tình cảm của con người. Mẹ Tơm đã nuôi giấu người cán bộ cách mạng bằng cả mạng sống của mình, bằng tình cảm thiêng liêng của người mẹ với con! Thật hiếm có một tấm lòng bao la, cao cả như tấm lòng người mẹ nghèo miền biển này. Không những nuôi giấu, che chở người cán bộ cách mạng, mẹ Tơm còn thầm lặng tham gia hoạt động; dù biết công việc này có rất nhiều nguy hiểm nhưng mẹ vẫn làm theo cách riêng của mình: Chợ xa, mẹ gánh mớ rau xanh/ Thêm bó truyền đơn gọi đấu tranh/ Bãi cát vàng thau in bóng mẹ/ Chiều về… Hòn Nẹ… biển reo quanh… Hình ảnh bà mẹ nghèo ngày ngày đi chợ, vượt qua bãi cát vắng đìu hiu nhưng trong lòng luôn hướng về cách mạng đã làm xao động lòng người đọc. Trong ngọn lửa phong trào cách mạng ấy, có công lao thầm lặng của mẹ Tơm. Vẫn trôi theo dòng chảy hoài niệm, giọng thơ chợt chùng xuống bởi nỗi đau mất con của mẹ Tơm: Nhưng một đêm mưa ướt bãi cồn/ Lính về, lính trói cả hai con/ Máu con đỏ cát đường thôn lạnh/ Bóng mẹ ngồi trông, vọng nước non! Có nỗi đau nào bằng nỗi đau mất con? Cả hai người con của mẹ Tơm đều tham gia hoạt động cách mạng. Chi tiết thật xúc động lòng người là hình ảnh người mẹ ngồi ngóng đợi tin con trong vô vọng, trong đau thương và những giọt nước mắt âm thầm chảy ngược vào trong lòng mẹ xót.
Trở về thực tại, tác giả bùi ngùi xúc động khi nhắc tới người xưa đã khuất: Ôi bóng người xưa, đã khuất rồi/ Tròn đôi nắm đất trắng chân đồi/ Sống trong cát, chết vùi trong cát/ Những trái tim như ngọc sáng ngời!… Mẹ Tơm ơi, hãy về đây vui cùng con cháu, vui cùng quê hương hòa bình này! Đây những căn nhà mới, những ngả đường mới và tiếng reo vui của những con tàu mới rẽ sóng ra khơi đang chờ đón mẹ. Tuy mẹ Tơm đã mất nhưng tấm lòng yêu thương người cán bộ cách mạng; tấm lòng thủy chung son sắt cùng cách mạng vẫn còn đó, vẫn sáng ngời cùng thời gian, cùng năm tháng diệu kỳ. Tái hiện cuộc đời hy sinh thầm lặng mà không kém phần hào hùng của mẹ Tơm bằng những dòng hồi tưởng mạnh mẽ. Các dòng thời gian hiện tại đan xen nhau cùng dòng thời gian hoài niệm đã cho người đọc cảm nhận được sự hy sinh vô bờ bến của người mẹ nghèo miền biển Thanh Hóa thuở nào. Ôn cố tri tân – biết được quá khứ để càng biết yêu thêm những ngày tháng hiện tại. Hình ảnh mẹ Tơm vẫn còn đó, vẫn sống mãi cùng đất nước, cùng quê hương.
Lê Lam Hồng
* Tài liệu tham khảo: Thơ Tố Hữu – NXB Giáo dục, 1998.
Bình luận (0)