Y tế - Văn hóaVăn hóa nghệ thuật

Thời thế “vẽ” nên “chân tài” Tú Xương

Tạp Chí Giáo Dục

Tìm hiu các tác gi văn hc Vit Nam, nhiu khi chúng tôi có suy nghĩ thế này: Nếu không có nhng hoàn cnh ngt nghèo đy đưa s phn, s không có nhng nhân cách ln, tác gia ln cho dân tc. Cho nên nhiu khi s bt hnh ca bn thân h li là s may mn cho di sn văn hóa nưc nhà.

Nhà thơ Tú Xương. Ảnh tư liệu

Cụ thể, như trường hợp Đại thi hào Nguyễn Du, nhờ những năm tháng “lênh đênh” mới có kiệt tác Truyện Kiều. Hay như cụ Đồ Chiểu, cũng vì liên tiếp gặp bất hạnh mà chúng ta mới may mắn có được người thầy toàn diện “Nho, y, bốc, lý, đạo, đời…/ Mấy mươi pho sách đều nơi bụng thầy”. Trần Tế Xương của chúng ta cũng như thế, vì lận đận thi cử, dở thầy dở thợ, mà “vẽ” nên “chân tài” một chân dung. Nếu Trần Tế Xương thuận buồm xuôi gió con đường quan lộ, biết đâu ông đã bị danh lợi ràng buộc (vì lẽ thường con người ở chợ thì ràng buộc chữ lợi, ở triều thì ràng buộc chữ danh – Nguyễn Bỉnh Khiêm). Cho nên có thể nói, chính thời thế đã tác tạo nên tài năng thơ Trần Tế Xương, mà như Xuân Diệu đánh giá: “Ông nghè, ông thám vô mây khói/ đứng lại văn chương một tú tài”.

“Không đ ông càng tt b ngông”

Trần Tế Xương có tên húy là Trần Duy Uyên. Ông đi học sớm và sớm nổi tiếng thông minh từ nhỏ. Gia thoại kể lại, hồi Uyên 10 tuổi, nhà có khách đến chơi, thấy trước nhà có một dãy chậu hoa, khách bèn ra cho cậu bé Uyên một câu đối: “Đình tiền ngũ sắc hoa” (trước sân có hoa năm sắc). Cậu bé Uyên liền chỉ vào lồng chim khướu treo ở hiên và đối lại: “Lung trung bách thanh điểu” (trong lồng có chim trăm tiếng). Khách nghe đối khen hay nhưng thở dài mà tiên đoán rằng đời thằng bé này không chừng lại lẩn quẩn như chim bị nhốt trong lồng!

Cuộc đời ngắn ngủi 37 năm của Trần Tế Xương đã nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Lục tỉnh Nam Kỳ rơi trọn vào tay Pháp lúc ông ra đời 3 năm. Khi ông 12 tuổi, Bắc Kỳ, Nam Định quê ông mất vào tay giặc. Trần Tế Xương là hiện thân của con đường học hành thi cử trong buổi ấy, không phải của “bảng vàng, lộng tía” mà là “giấc mộng tan tành” của phận thư sinh. Cuộc đời Trần Tế Xương gắn liền với thi cử với tất cả là tám lần thi. Sau 3 lần đầu hỏng thi, mãi đến lần thứ tư của khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm). Sau đó thi hoài mà không đỗ cử nhân. Khoa Quý Mão (1903), Trần Tế Xương đổi tên mình thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi vẫn hỏng, đến nỗi ông phát cáu lên: “Tế đổi làm cao mà chó thế/ Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi!”. Song một mặt ông vẫn luôn tự đắc với mình, xem như đó là cách tự an ủi: “Bởi ông hay quá ông không đỗ/ Không đỗ ông càng tốt bộ ngông”.

Lý do bậc “thần thơ thánh chữ” (đánh giá của nhà văn Nguyễn Công Hoan về Tú Xương) thi hoài không đỗ đã được nhiều nhà nghiên cứu phân tích. Trong đó có nguyên nhân dễ hiểu là tính tình Tú Xương rất phóng túng, ít chịu sự ràng buộc bởi “tầm chương trích cú” nào. Nhưng với thi cử ngày trước, muốn thi đỗ điểm cao phải có điển này tích nọ trong bài làm, mà với thơ Tú Xương thì điều này tuyệt nhiên rất ít thấy dùng đến. Ngặt nghèo một nỗi là, thời ấy, bằng tú tài thuộc loại “dở dở ương ương”. Vì tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi; tú tài cũng không được bổ quan, cử nhân mới được bổ. Đã đậu tú tài, muốn đậu cử nhân phải đợi 3 năm sau mới có kỳ thi. Hoàn cảnh oái ăm ấy, khiến ông tú tài Trần Tế Xương trở thành nho sinh “dài lưng tốn vải”, trở thành kẻ “ăn bám vợ” như chính ông đã tự thuật về công lao người vợ nuôi ông trong bài thơ Thương vợ: “Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng”.

Với gia cảnh tám người con, lại khổ với ông chồng đa tình, đa tài và phóng túng, vai bà Tú nặng hơn vì gánh nặng mưu sinh. Tú Xương rất ý thức điều đó, xong cái “tật” của con người có “tài” luôn song hành trong ông. Chính Tú Xương đã “tự kiểm điểm” với vợ trong giai thoại về sự ra đời bài thơ Ba cái lăng nhăng: “Một trà, một rượu, một đàn bà/ Ba cái lăng nhăng nó quấy ta/ Chừa được cái gì hay cái nấy/ Có chăng chừa rượu với chừa trà!”. Để rồi cay đắng nhận bi kịch của con người “thừa” (chữ của Nam Cao) “có chồng hờ hững cũng như không” – Thương vợ. Và để rồi Tú Xương tự “thẹn” với lòng như cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã từng thẹn trước đây: “Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành/ Mắt thời thao láo, mặt thời xanh/ Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó/ Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh/ Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ/ Rượu chè trai gái đủ tam khoanh/ Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi/ Cứ việc ăn chơi chẳng học hành” (Phỗng sành).

Chính những điều nói trên đã làm nên giọng điệu thơ vô cùng đặc biệt của Tú Xương vừa trào phúng vừa trữ tình, vừa hiện thực vừa lãng mạn: “Vừa say mê nhập cuộc vừa phản ứng lại khoa cử – điều này đã tạo nên sắc thái tự trào độc đáo riêng ở Tú Xương. Chính từ đặc điểm này lại tiếp tục lan tỏa và quy định tiếng nói trữ tình của Tú Xương trong cách cảm nhận về thời thế, trong sự phân thân tạo nên tiếng cười bỡn cợt, bông phèng…” (Một thế kỷ tiếp nhận thơ Tú Xương – Nguyễn Hữu Sơn, Trần Tế Xương – Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2003, tr. 13).

“Kìa ai chín sui xương không nát” (Nguyn Khuyến)

Trn Tế Xương (1870-1907) thưng gi là Tú Xương. Cuc đi ông ch gn lin vi thi c, có tt c 8 ln. Đó là các khoa: Bính Tut (1886), Mu Tý (1888), Tân Mão (1891), Giáp Ng (1894), Đinh Du (1897), Canh Tý (1900), Quý Mão (1903) và Bính Ng (1906). Sau 3 ln hng thi, mãi đến ln th 4 khoa Giáp Ng (1894) ông mi đu tú tài, nhưng cũng ch là tú tài thiên th (ly thêm). Sau đó không sao lên ni c nhân, mc dù đã khá kiên trì theo đui…

Dù trước tác không nhiều và mất mát nhiều do không được lưu giữ cẩn thận, tuy nhiên ở thể loại nào (thơ luật Đường, phú, văn tế, câu đối, hát nói, lục bát), Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy. Tương truyền Nguyễn Khuyến đã khóc Tú Xương với hai câu thơ được ghi trên mộ: “Kìa ai chín suối xương không nát/ Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn”. Nhà văn Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc “thần thơ thánh chữ”. Còn Xuân Diệu thì xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm. Thi sĩ Tản Đà khi còn sống tự nhận “trong những thi sĩ tiền bối, phục nhất Tú Xương”. Còn bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân thì Tú Xương là “một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam”. Tú Xương còn là hiện tượng hiếm có trong lịch sử tác giả Việt Nam khi có các “môn đệ” theo sau để trở thành “môn phái” thơ Tú Xương bằng sự ngưỡng mộ ông. Từ Tú Xương rồi xuất hiện Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc và thêm chi phái Tú Poanh, Đồ Phồn… (dẫn từ lời giới thiệu của Nguyễn Đình Chú, Tú Xương – tác phẩm, giai thoại, Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh, 1986).

Thật khó nói hết cái tài, cái thi vị về cuộc đời và thơ Tú Xương trong một bài viết ngắn. Để tỏ lòng ngưỡng mộ, người viết bài này có vài dòng lục bát quê kệch bày tỏ cảm kích với tiên sinh Tú Xương: Tài cao phận thấp là đây/ Tám lần ứng thí, trắng tay… tám lần/ Trách trời ăn ở bất cân/ Thơ ngâm không hết, gạo lần chẳng ra/ Một ca, một rượu, một trà/ Một ông ngất ngưởng… vai bà nặng thêm/ Ngẫm đời còn một chữ duyên/ Còn hai chữ nợ, còn phiền lụy nhau/ Chút tình nhắn gửi mai sau/ Đừng ăn ở bạc làm đau phận người…/ Trạng nguyên, tiến sĩ đâu rồi/ Tú tài còn được cho đời thẩm thơ.

Trn Ngc Tun

Bình luận (0)