Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều chúng ta quan tâm là điều gì làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu… tác phẩm, mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt này.

Với truyện ngắn hiện đại, giọng văn biến hóa và phong phú vô cùng. Nó làm nên phong cách nghệ thuật riêng của các tác giả. Điều này đã được nhà thi pháp học M.M.Bakhtin nói đến từ lâu trong cuốn “Lý luận và thi pháp tiểu thuyết” (Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội, 1992): “Cái bản chất mâu thuẫn của xã hội đang hình thành vốn không thể chứa đựng được những ý thức độc thoại, trực quan, bình lặng, tự tin, cần phải thực hiện một cách gay gắt và đồng thời những đặc tính của thế giới va chạm vào nhau, bị mất thế cân bằng tin tưởng càng cần phải khắc họa đặc biệt đầy đặn và sắc nét. Những điều ấy đã tạo nên tiền đề khách quan cho sự đa bình diện, đa giọng điệu”. Và truyện Nam Cao trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 là một hiện tượng tiêu biểu cho điều này. Tính đa thanh, phức điệu của truyện ngắn Nam Cao thể hiện trên nhiều bình diện.
Lối kể chuyện bằng nhiều giọng điệu
Đa giọng điệu ở truyện Nam Cao trước hết là ở lối kể chuyện nhiều giọng. Nhà văn sử dụng một lối ngôn ngữ mang tính tạo hình và đa thanh. Ngôn ngữ đa thanh nhấn mạnh vào người khác, hướng về một tiếng nói khác, tiếng nói của tác giả hướng về tiếng nói của nhân vật, tiếng nói của nhân vật này hướng về tiếng nói của nhân vật khác. Các giọng này ở nhiều cấp độ: Giữa truyện với truyện; giữa các phần trong một truyện và nhỏ nhất là trong một đoạn của truyện. Tùy theo nội dung tư tưởng của từng truyện mà giọng chủ đạo nổi lên bên cạch các giọng khác. Chẳng hạn, một số truyện như: Lão Hạc, Từ ngày mẹ chết, Mua nhà, Dì Hảo… giọng nghiêm nghị thể hiện phẩm chất cao quý, tình mẫu tử, đức hy sinh của nhân vật qua sự trân trọng chân thật của người kể. Ngược lại, với những truyện như: Cái mặt không chơi được, Cười… giọng chủ đạo là hài hước, chua chát để kể về bộ mặt lạnh như nước đá, ngượng nghịu và vô duyên, những cảnh trớ trêu đành phải “cười trừ” vì cơm áo hàng ngày…
Sự đan cài giữa các giọng văn trong cùng một tác phẩm
Quán xuyến trong phần lớn các tác phẩm của Nam Cao là sự đan cài giữa các giọng trong cùng một tác phẩm, một đoạn văn. Chí Phèo, Trẻ con không được ăn thịt chó, Cười, Quên điều độ, Những chuyện không muốn viết, Lang rận… là những truyện có tính chất này. Ở đoạn đầu của truyện Chí Phèo: “Hắn vừa đi vừa chửi… Thế thì có khổ hắn không?” ta thấy có sự đan xen giữa hai giọng: Giọng nhà văn và giọng Chí Phèo. Hoặc ở một đoạn khác, lúc Chí Phèo cầm vỏ chai đến nhà Bá Kiến lần đầu tiên: “Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật chặt… Mới ngoa ngoắt làm sao”. Phân tích đoạn này, ta thấy các giọng lần lượt sau: Giọng của các bà, giọng của tác giả, giọng của người láng giềng và cuối cùng là giọng Chí Phèo. Giọng điệu cả hai đoạn văn trên và rất nhiều đoạn khác thường khai thác dưới hình thức “song thanh khác phương hướng”. Giọng của người kể thường mang sắc thái trêu trọc, mỉa mai, biếm phỏng. Giọng trêu chọc của người kể chuyện cứ tăng dần từng nấc và đến lúc nào đấy, ngôn ngữ nhân vật bật ra dưới dạng thức một ngôn thoại trực tiếp. Chuyện hướng về nhân vật với tính chất đối thoại, nhưng gây ấn tượng mạnh ở chỗ nó cũng đang hướng về người đọc.
Trong loại “song thanh cùng phương hướng”, giọng của người kể và giọng của nhân vật hòa quyện đến mức không thể phân biệt được nữa. Ta bắt gặp ở một số truyện như: Giăng sáng, Điếu văn, Đời thừa… Xin trích đoạn sau đây trong truyện Trẻ con không được ăn thịt chó: “Bây giờ thì mọi thức đã xong rồi… Hắn lảm nhảm bênh vực cho cái dự định của hắn như thế mãi, tuy chẳng có ai phản đối”. Chúng ta thấy ngôn ngữ người kể chuyện xê dịch giữa hai thái cực: Giữa thứ ngôn ngữ thông báo khô khan, có tính chất văn bản (bây giờ thì mọi thức đã xong rồi) và ngôn từ của nhân vật. Khi ngôn từ người kể chuyện hướng về ngôn từ của nhân vật thì nó trình bày với giọng đồng tình, cảm thông (chẳng cần múc làm gì cho rếch bát… Ăn thịt chó chứ có phải ăn bát đâu mà cần). Hai thứ ngôn ngữ đó hòa làm một. Chứng tỏ lối kể của Nam Cao là lối kể không có “viễn ảnh” – nói theo thuật ngữ của nghệ thuật học. Người kể chuyện ở ngay cạnh nhân vật và biến cố đang xảy ra. Nam Cao đã “đa thanh hóa” giọng điệu tự sự, giọng tác giả và giọng nhân vật đan cài vào nhau, tiếng nói của tác giả và tiếng nói nhân vật phụ họa nhau, có khi tranh cãi nhau quyết liệt. Giọng căng thường được thể hiện bằng lối đặc tả, trong đó sự kiện diễn biến dồn dập trong một thời gian gấp gáp, cụ thể, những lời đối thoại gây kích thích hành động và luôn hàm chứa trong nó nhiều giọng điệu luân phiên nhau, có khi hòa hợp khó phân biệt giữa giọng kể và giọng nhân vật. Giọng chùng là những lúc hồi ức về một quá khứ xa vời, một hành động diễn ra chậm chạp, một chuỗi suy nghiệm tính toán, những cảnh gợi liên tưởng hơn là kích thích hành động. Thủ pháp tạo giọng thường là dùng câu dài với những điệp ngữ xoắn xuýt, những kết từ, liên từ và lối tăng cấp tiệm tiến. Chính chất giọng chùng và căng này đã làm cho tấm bi kịch của một số nhân vật của Nam Cao hiện lên hồn một (Giăng sáng, Đời thừa, Một bữa no…).
Đời sống và tiếng nói riêng của nhân vật tạo nên sự đa giọng điệu
Trong truyện ngắn của Nam Cao, nhân vật sống thật và có tiếng nói riêng. Nhân vật với đầy đủ bản chất của nó như sinh hoạt, tính cách, dị dạng, ngôn ngữ… là hình tượng trung tâm của truyện. Nhân vật không phải là khách thể của lời văn tác giả, mà là chủ nhân có toàn vẹn giá trị và toàn quyền về lời nói của mình. Sự độc đáo của Nam Cao trong tính chất đa giọng điệu là việc khắc họa nhân vật. Nhân vật trong sáng tác của Nam Cao được miêu tả một cách thực tế chứ không phải biểu hiện, tức là không hòa nhập làm một với tác giả, không trở thành “cái loa” cho tiếng nói của tác giả. Khi xây dựng nhân vật, Nam Cao không nhằm xây dựng một tính cách mà ông chủ yếu khắc họa một tư tưởng. Tư tưởng tiến hành một cuộc sống độc lập trong ý thức nhân vật. Không phải nhân vật sống mà tư tưởng sống. Nam Cao không miêu tả cuộc đời của nhân vật mà ông miêu tả cuộc đời của tư tưởng nhân vật đó (những Chí Phèo, Lão Hạc, Dì Hảo, Hộ, Điền…).
Nam Cao lấy sự phân tích tâm lý làm chính để xây dựng truyện, dựng nhân vật. Dù nhân vật là nông dân hay trí thức, kẻ lưu manh hay người lương thiện, ngòi bút của tác giả khơi gợi đến cái phần nhạy cảm, phần nghĩ của chúng, bắt chúng phải tự bộc lộ. Chính vì vậy mà nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao nhiều tư tưởng, đa giọng điệu. Thi pháp truyền thống, khi xây dựng nhân vật bao giờ cũng tuân theo những nguyên tắc đồng nhất giữa các mặt: Ngoại hình và phẩm hạnh, ngôn ngữ và tính nết, hành động và suy nghĩ… Nam Cao tiến hành ngược lại. Nhân vật của ông có thể bề ngoài xấu xí nhưng tâm hồn đẹp (mụ Lợi trong Lang Rận), tâm địa xấu xa nhưng được trang mã khá đẹp (Kha trong Truyện tình), có khi chỉ một phương diện tâm hồn vừa đẹp vừa xấu (Điền, Hộ…). Ông nhận thức con người với tính chất phức tạp không cùng của nó, và mô tả chúng theo nguyên tắc không đồng nhất.
(còn tiếp)
Trần Ngọc Tuấn

Bình luận (0)