Sự kiện giáo dụcVấn đề - Sự kiện

TP.HCM: Vận dụng tối đa cơ chế, chính sách đặc thù phát triển đường sắt đô thị

Tạp Chí Giáo Dục

Hoàn thành 355km đưng st đô th vào năm 2035 là công vic rt ln đi vi TP.HCM. Vic này đòi hi TP phi xây dng kế hoch, đu tư chiu sâu v công ngh, chun hóa quy trình, phát trin nhân lc cht lưng cao. Bên cnh đó, TP phi tăng cưng liên kết vi các nhà thu, đi tác quc tế, hưng ti hình thành chui cung ng ni đa cho h thng ngành đưng st.

TP.HCM phấn đấu đến 2035 hoàn thành 355km đường sắt đô thị

Phn đu hoàn thành 355km đưng st đô th

Ông Nguyễn Vĩnh Toàn – Phó Giám đốc Sở Xây dựng TP.HCM – cho biết, mạng lưới đường sắt quốc gia khu vực đầu mối TP.HCM đã được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 1769, bao gồm 8 tuyến đường sắt quốc gia với tổng chiều dài 585km và 5 ga đầu mối trên tuyến.

Về đường sắt đô thị, quy hoạch mạng lưới đường sắt đô thị TP.HCM (mới) có tổng chiều dài khoảng 1.012km. Trong đó, khu vực TP.HCM (cũ) có 12 tuyến, dài khoảng 582km. Ngoài ra, quy hoạch cũng bao gồm 12 tuyến tại tỉnh Bình Dương (cũ) dài khoảng 305km và 3 tuyến tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (cũ) dài 125km. Tuyến đường sắt Thủ Thiêm – Long Thành (dài gần 42km) đang được Thủ tướng xem xét giao UBND TP là cơ quan chủ quản và bổ sung vào quy hoạch đường sắt đô thị của TP và tỉnh Đồng Nai.

Theo ông Toàn, với các cơ chế đặc thù này, TP tập trung nguồn lực để phấn đấu khởi công tuyến metro số 2 vào cuối năm 2025. Đối với các tuyến còn lại, TP phấn đấu hoàn thành công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư vào năm 2027 và khởi công đồng loạt 9 tuyến từ cuối năm 2027, hoàn thành 355km vào năm 2035. Mục tiêu đến năm 2035 là đường sắt đô thị sẽ góp phần đảm nhận từ 30-40% nhu cầu đi lại của người dân bằng giao thông công cộng. Sau năm 2045, tỷ lệ này sẽ là 40-50%, góp phần hình thành hệ thống hạ tầng giao thông đô thị hiện đại với “xương sống” là hệ thống mạng lưới đường sắt đô thị, góp phần giảm ùn tắc giao thông, phát triển đô thị xanh, bền vững, hiện đại.

Theo ông Toàn, khối lượng phát triển mạng lưới đường sắt đô thị của TP.HCM trong thời gian tới là rất lớn. Vì vậy, TP đang khẩn trương tổ chức rà soát tổng thể quy hoạch mạng lưới đường sắt đô thị; vận dụng tối đa các cơ chế, chính sách đặc thù phát triển đường sắt đô thị được Quốc hội cho phép tại Nghị quyết 188. TP cũng khẩn trương xây dựng kế hoạch, lộ trình đầu tư, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất bổ sung cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để đầu tư phát triển hệ thống đường sắt nhằm giải quyết kịp thời các vấn đề thực tiễn phát sinh phù hợp với không gian phát triển mới, tầm nhìn mới…

Ông Trần Thành Trọng – Phó Chủ tịch Hội Doanh nghiệp cơ khí  –  Điện TP.HCM  – cho rằng, đường sắt đô thị là dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia, góp phần hoàn thiện mạng lưới giao thông công cộng, giảm áp lực cho hạ tầng đường bộ và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Đây còn là biểu trưng cho năng lực công nghiệp và trình độ công nghệ của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Để giảm áp lực cho việc xây dựng đường sắt đô thị, nhất là vấn đề ngân sách, TP có thể tận dụng dịch vụ từ các doanh nghiệp cơ khí, điện – điện tử. Các doanh nghiệp này có khả năng cung cấp dịch vụ lắp đặt hệ thống phụ trợ cho đường sắt đô thị như: hệ thống cấp nguồn điện, hệ thống máy phát điện dự phòng, hệ thống thông gió, hệ thống điều khiển tự động ngoại vi, hệ thống PCCC và thang máy. Đối với các thiết bị khác như toa xe, đường ray, các đơn vị tham gia cần phải có sự phối hợp và đầu tư ngay từ bây giờ.

Đối với các doanh nghiệp cần đầu tư chiều sâu về công nghệ, chuẩn hóa quy trình, phát triển nhân lực chất lượng cao và tăng cường liên kết với các nhà thầu, đối tác quốc tế, hướng tới hình thành chuỗi cung ứng nội địa cho hệ thống ngành đường sắt. Cần có các doanh nghiệp lớn đầu tư, dẫn dắt các doanh nghiệp nhỏ để tạo thành chuỗi cung ứng liên kết và những doanh nghiệp này phải ưu tiên sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà trong nước có thể sản xuất, cung cấp.

“Các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là Ban Quản lý dự án Đường sắt đô thị TP.HCM quan tâm hơn đến việc sử dụng các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ trong các hạng mục của đường sắt đô thị được sản xuất, cung cấp tại nội địa. Quá trình này sẽ giảm chi phí đầu tư, chi phí vận hành, bảo trì, tăng tính tự chủ cho đất nước và quan trọng hơn tạo tiền đề để công nghiệp đường sắt hiện đại Việt Nam phát triển. Đối với các hạng mục bắt buộc phải sử dụng thiết bị nhập ngoại, cần có quy định lộ trình chuyển giao công nghệ sản xuất, vận hành và bảo trì cho Việt Nam”, ông Trọng đề xuất.

Khn trương đào to nhân lc cht lưng cao

TS.Nguyễn Minh Khoa – giảng viên Trường Đại học Bách khoa (ĐHQG TP.HCM) – khẳng định, để thực hiện chiến lược phát triển hệ thống đường sắt Việt Nam, nguồn nhân lực giữ vai trò rất quan trọng. Theo đó, giai đoạn 2025-2030, ngành đường sắt cần đào tạo ít nhất 35.000 nhân lực chất lượng cao, trong đó bao gồm khoảng 14.000 người trình độ đại học và 1.000 người trình độ sau đại học. Nhu cầu nhân lực tập trung lớn nhất ở nhóm ngành kỹ thuật xây dựng (16.300 người), khai thác vận tải đường sắt (6.000 người), kỹ thuật xây dựng công trình đường sắt (4.700 người), tín hiệu – thông tin đường sắt (3.700 người). Ngoài ra, cần đào tạo nghiệp vụ cho 12.000 người đáp ứng yêu cầu vận hành, khai thác, bảo trì các tuyến đường sắt, gồm: 4.500 người cho các tuyến đường sắt quốc gia và 7.500 người cho các tuyến đường sắt đô thị.

TS.Tô Thanh Tuần – Phó Hiệu trưởng Trường CĐ Công nghệ Quốc tế LILAMA2 – nhấn mạnh, giải pháp then chốt cho nguồn nhân lực ngành đường sắt chính là sự hợp tác chặt chẽ giữa 3 chủ thể: nhà trường, doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Trong mối liên hệ này, nhà trường cung cấp nhân lực, chuyển giao công nghệ và đào tạo nâng cao; Doanh nghiệp đóng vai trò đặt hàng đào tạo, hỗ trợ cơ sở vật chất, đóng góp ý kiến xây dựng chương trình đào tạo và hướng dẫn thực tập; Cơ quan quản lý Nhà nước kiến tạo chính sách phát triển, hỗ trợ kinh phí, xúc tiến hoạt động thương mại và tiến hành kiểm định chất lượng đào tạo. Sự phối hợp này đảm bảo doanh nghiệp nhận được nguồn nhân lực chất lượng cao, giảm chi phí đào tạo lại, đồng thời người học được trang bị kỹ năng thực tế và làm việc ngay sau khi ra trường.

“Để sự phối hợp này đạt hiệu quả, doanh nghiệp và nhà trường phải trực tiếp phối hợp hoàn thiện chương trình đào tạo thông qua các hội thảo kỹ thuật. Trong quá trình đào tạo cần tập trung chuyên sâu vào các lĩnh vực thiếu nguồn nhân lực như: Lắp đặt kết cấu thép, đường ray, toa tàu; công nghệ hàn; điện công nghiệp. Về mô hình đào tạo nên áp dụng hình thức đào tạo phối hợp và đào tạo kép”, TS. Tuần đề xuất.

Song Hu

Bình luận (0)