Năm nay thầy Trần Hữu Tá 83 tuổi. Vài ba năm trở lại đây thầy lâm bệnh nặng. Gần đến ngày 20-11, trong lòng tôi lại da diết nhớ tới những người thầy, trong đó có PGS. Trần Hữu Tá, người thầy hiện nay vẫn đang nhọc nhằn chống trả với bệnh tật quái ác…
Tác giả (phải) và GS. Đặng Ngọc Lệ (trái) đến thăm thầy Trần Hữu Tá khi thầy vừa khỏi bệnh (năm 2017)
Tôi không có may mắn được học thầy trực tiếp. Khi tôi ra Hà Nội, thầy đã vào Nam. Thành ra ban đầu chỉ là đọc những gì thầy viết, nghe lại những gì người ta kể và nhắc về thầy. Nhưng rồi về sau, cũng được gặp gỡ và trực tiếp chuyện trò, trao đổi, luận bàn. Cũng được thầy coi là thân thiết, được tặng sách và nhất là được ăn nói thoải mái, không phải giữ mồm giữ miệng mỗi khi có dịp gặp thầy. Chỉ tiếc là sống xa cách hai đầu đất nước nên không được thường xuyên gặp gỡ. Tuy thế và dẫu chỉ thế, vẫn đủ đọng lại trong tôi một ấn tượng rất sâu đậm về thầy Trần Hữu Tá – một người thầy có tấm lòng nhân hậu, liên tài.
Chất nhân hậu của thầy toát ra từ giọng nói, dáng di, từ cung cách ứng xử thường nhật với mọi người. Tuy không gần gũi bên thầy hàng ngày nhưng tôi luôn nghĩ chắc chẳng bao giờ thầy lớn tiếng, đập bàn đá ghế, “phùng mang trợn mắt”, “đỏ mặt tía tai”, quát tháo om sòm… Với tôi, hình ảnh thầy Trần Hữu Tá luôn là một con hồ phẳng lặng, êm đềm, mềm mại và sâu thẳm bao dung – một con người thanh nhã, lúc nào cũng nhỏ nhẹ, từ tốn; ăn cũng thế mà nói cũng thế. Tôi cứ nghĩ, con người ấy, ngay cả lúc nóng giận nhất, quyết liệt nhất vẫn chỉ tung ra những âm sắc của nhã nhạc chứ không xủng xoảng gươm đao. Giọng miền Bắc êm nhẹ, lại dí dỏm hay dùng nhã ngữ nên cách nói của thầy rất truyền cảm, thấm thía. Ít khi thấy thầy vội vã, tất bật. Cứ để ý cách pha trà tiếp khách là có thể hình dung ra nhịp sống của thầy. Không cầu kỳ, hoa lá nhưng cũng đủ cẩn trọng, rất “chuyên nghiệp” và đúng cách. Cùng với nụ cười hồn hậu, cái bắt tay của thầy bao giờ cũng chặt và nồng ấm, luôn mang lại cho người giao tiếp một cảm giác tin cậy, chân thành.
Còn nhớ, nhân kỷ niệm 40 năm Khoa Ngữ văn Trường ĐH Sư phạm TP.HCM (11-2016), tôi gặp lại thầy, bỗng thấy bâng khuâng, hẫng hụt. Vốn bình thường thầy đã luôn chậm rãi, thong thả, nay vào tuổi bát tuần, bước đi và các động tác của thầy đã chậm chạp hơn nhiều, đã phải có người đi bên cạnh theo mỗi bước chân… Chất nhân hậu còn thể hiện ở cách nghĩ, cách viết của thầy. Nghĩ và nói về ai, thầy thường nhìn và nêu lên cái hay, cái tốt; nói và viết về cái tốt cái hay của họ. Trong nhiều lần tiếp xúc, chuyện trò, bàn luận thường tôi chỉ thấy thầy ngợi ca bạn bè, học trò; ít khi thấy chê bai người khác. Cực chẳng đã thầy mới nói về bọn côn đồ, lưu manh cả trong cuộc sống và văn chương học thuật bằng một giọng giễu nhại, châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay… Lại nhớ có lần gặp tại TP.HCM, khi chia tay thầy nói nhỏ với tôi, đại ý: vừa rồi có bài viết trên một tờ báo, trong đó tác giả có “ném bùn vào cả em nữa đấy”. Tưởng thế là xong, thầy còn nói với thêm: “Nhưng em đừng đọc làm gì, đọc chỉ thêm bực, thêm bận lòng”. Tôi rất cảm động vì câu nói thêm ấy. Hóa ra một mặt thầy muốn báo cho tôi biết thông tin, nhưng báo rồi lại thương, lại nghĩ tôi phải bực bội, chán ngán nên khuyên đừng đọc. Hay thầy biết tính tôi nóng nảy nên đọc rồi lại bốc hỏa choảng nhau, mất thời gian và phí sức lực vào những cuộc cãi vã, đối thoại vô bổ, vô duyên…
Thầy Trần Hữu Tá tham dự hội thảo kỷ niệm 40 năm thành lập Trường ĐH Sư phạm TP.HCM (11-2016)
Với tôi, hình ảnh thầy Trần Hữu Tá luôn là một con hồ phẳng lặng, êm đềm, mềm mại và sâu thẳm bao dung – một con người thanh nhã, lúc nào cũng nhỏ nhẹ, từ tốn; ăn cũng thế mà nói cũng thế. |
Cũng từ cái nhìn và tấm lòng nhân hậu, thầy viết cuốn “Từ bục giảng đến văn đàn” như một sự đồng cảm, tri ân. Cuốn sách viết về 25 nhân vật – nhà văn hóa, nhà giáo, nhà văn. Thầy đã làm công việc “tạc văn bia” cho những bậc thầy; trong đó trừ một vài người không cùng thế hệ còn lại hầu hết là những người thầy mà thầy được trực tiếp thụ giáo và cuối cùng là những đồng nghiệp, bạn bè cùng thế hệ với mình. Lần giở hơn 300 trang sách, trang nào cũng thấy ngồn ngộn một tấm lòng yêu thương, một thái độ trân trọng và một cảm hứng ngợi ca cái tài, cái đẹp, cái tâm. Với mỗi người, thầy đều tìm và khái quát được những nét đẹp riêng bằng một vài chữ ngắn gọn, chính xác và mang đậm dấu ấn cá nhân. Đọc cuốn sách thấy thầy thật hạnh phúc. Hạnh phúc vì được học, được sống, làm việc, cộng tác và tiếp xúc với những con người như thế. Và hơn hết, hạnh phúc vì tất cả những con người ấy với thầy đều rất nặng tình, nặng nghĩa, có nhiều kỷ niệm sâu sắc, khó mờ phai. Đúng là cả một thế hệ vàng, một thế hệ nhà giáo – trí thức lỗi lạc. Dưới ngòi bút của thầy, mỗi người hiện lên một vẻ; mỗi người là cả một thế giới mênh mông, sâu thẳm; tài năng và đức độ… Nhưng tất cả đều được tiếp cận và nhìn nhận dưới góc độ con người: khắc họa những nét đời thường trong một thánh nhân.
Viết về những con người như thế, người viết trước hết phải có vốn liếng dày dặn, có những hiểu biết kỹ càng về đối tượng; phải có tấm lòng liên tài và cũng phải có tài. Đây không phải là cuốn từ điển văn học; cũng không phải những cuốn sách viết về tiểu sử các danh nhân, loại sách chỉ thuần túy lạnh lùng cung cấp thông tin như thông thường ta vẫn thấy. Cuốn sách này viết từ một trái tim nồng hậu, từ những hiểu biết sâu sắc và phong phú, từ những nếm trải, nghiền ngẫm của một người trong cuộc. Thấp thoáng trong cuốn sách là hình bóng cái tôi – một con người từng chứng kiến, từng gánh chịu, cùng tham gia, cùng đồng hành… với những nhân vật lừng danh một thuở. Cuốn sách là một kho tư liệu sinh động về sự việc và con người một thời mà người viết là nhân chứng sống. Thầy viết về họ, thông qua số phận của những trí thức, những cá nhân nhưng đã làm sống lại cả một thời kỳ bi hùng của lịch sử dân tộc. Lối viết của thầy ở tập sách này cũng rất linh hoạt hấp dẫn: khi thì kể lại những sự việc có thật, khi thì cung cấp tư liệu, những minh chứng rõ ràng khoa học, khi thì dẫn dụ, luyến láy bằng thơ văn của chính người được viết. Và trên hết là những nhận xét, bình luận vừa sâu lắng, tinh tế, vừa nặng tình, nặng nghĩa của người viết về người được viết.
Cũng với tình cảm và tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” ấy, năm 2000 thầy đã cho xuất bản cuốn “Nhìn lại một chặng đường văn học”. Cuốn sách hơn 1.000 trang nhằm phân tích, đánh giá sự hình thành và phát triển của khuynh hướng văn học yêu nước, cách mạng ở các đô thị miền Nam từ 1954-1975; đặc biệt là phần giới thiệu những tác phẩm tiêu biểu của 90 tác giả thuộc khuynh hướng này. Nhiều tên tuổi đã quen thuộc như Vũ Bằng, Vũ Hạnh, Trang Thế Hy, Nguyễn Hiến Lê, Trần Quang Long, Bình Nguyên Lộc, Viễn Phương, Sơn Nam, Thái Ngọc San, Tần Hoài Dạ Vũ… Nhưng cũng rất nhiều tên tuổi, nhiều người không hoặc ít biết nếu không có sách này như Hàn Xuân, Xuân Việt, Yên Thi, Đông Tùng, Kỳ Sơn, Truy Phong, Minh Quân, Mặc Khải… Có thể nói cuốn sách là sự bổ khuyết đích đáng cho một khoảng trống về lịch sử văn học nước nhà. Thầy đã hoàn thành nó bằng tất cả nhiệt tình và tâm huyết, từ việc sưu tầm, phân tích, đánh giá đến lựa chọn và giới thiệu hàng loạt gương mặt thơ văn yêu nước miền Nam với một thái độ trân trọng, nâng niu. Khuynh hướng thơ văn ấy là một thực thể lịch sử, không thể chối bỏ, không dễ lãng quên, nhưng nếu không có người với tấm lòng nhân hậu và liên tài như thầy, tôi nghĩ khó có được sớm những công trình như thế.
Cách đây 3 năm, thầy Trần Hữu Tá vào tuổi 80. Nhân vào dự một hội thảo khoa học tại TP.HCM, tôi rủ mấy anh em đến thăm. Thầy gầy đi nhiều, ít nói hơn; chậm rãi rót nước, lặng lẽ lắng nghe, lặng lẽ mỉm cười… Năm tháng qua đi, tài năng thì “vô cùng, vô lượng”, “thiên hạ nhân, thiên hạ tài”, tri thức thì hôm nay mới ngày mai đã cũ; với mỗi con người, nhất là người làm nghề dạy học, cái còn đọng lại trong các thế hệ học trò phải chăng là tấm lòng, đức độ, là nhân cách? Và vì thế làm sao có thể quên được một con người có tấm lòng nhân hậu và liên tài như thầy Trần Hữu Tá?
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống
Bình luận (0)