Trong dòng chảy văn học, nếu Nguyễn Trãi là người kết tinh thời kỳ vàng son văn hóa Lý – Trần thì Nguyễn Bỉnh Khiêm là người theo sau, kế thừa tinh hoa Nguyễn Trãi và đạt đến đỉnh cao, thêm một bước hoàn thiện cả về tư tưởng cũng như bút pháp, thể loại cho thi ca dân tộc.
Học sinh Trường THPT Tây Thạnh phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Chỉ cần so sánh về thể loại thơ Nôm đủ cho ta thấy điều đó: Nếu Quốc âm thi tập (được xem là tập thơ viết bằng chữ Nôm sớm nhất của văn học Việt Nam), mặc dù được Nguyễn Trãi ý thức cách tân “Nôm hóa” thơ thất ngôn Đường luật chữ Hán bằng nhiều câu thơ lục ngôn (sáu chữ), song vẫn còn đậm đặc yếu tố cổ điển. Thì đến Bạch Vân quốc ngữ thi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “lột xác” cho thơ Nôm dân tộc, “Việt hóa” từ ngôn từ, mỹ cảm cho đến tâm thức… Tất cả đều nhuốm màu thế sự, thấm đẫm hơi thở thời đại đạo lý luân thường. Mà phải chờ khá lâu sau đó, đến áng thơ Nôm trác việt kết tụ linh hồn dân tộc Truyện Kiều (Nguyễn Du) và tài “Chúa thơ Nôm” của Hồ Xuân Hương, dòng chảy thơ Nôm Việt Nam mới thật sự thăng hoa, đạt đến đỉnh cao của sự hoàn hảo. Nhìn bao quát ra như thế để thấy rằng trong dòng chảy ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm là chiếc cầu nối, là một mắt xích quan trọng, là vị trí khó có thể thiếu.
Bạch Vân quốc ngữ thi là đoạn trung chuyển của dòng chảy ấy, mà tiêu biểu nhất là bài thơ Nhàn (Thú nhàn). Bài thơ này của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ lâu đã được đưa vào giảng dạy ở chương trình Ngữ văn lớp 10. Đây được xem là bài thơ khá đặc biệt vì nó kết tinh tư tưởng sâu sắc quan niệm sống của những bậc đại hiền triết thức giả Á Đông xa xưa, song những chiêm nghiệm sống ấy ngày nay vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn. Thật khó nói hết cái hay và sự thâm thúy của nó. Bài viết này xin có mấy liên hệ như những điểm nhấn nhằm làm nổi bật sự thâm thúy của bài thơ.
Thứ nhất, sự thâm thúy của bài thơ thể hiện ở nhan đề Nhàn, mặc dù nó được người đời sau đặt. Trong Hán tự, chữ “nhàn” được ghép bởi bộ “nhân” (“nhân” đứng, là người, đứng bên trái tự) hội ý với bộ “môn” (là cửa), trong bộ “môn” có bộ “nguyệt” (là trăng). Khi hội ý như thế, chữ “nhàn” có nghĩa là: người thảnh thơi ngắm trăng rọi vào khung cửa. Lúc nào chúng ta có những giây phút giao hòa với thiên nhiên như thế mới gọi là nhàn. Ngày nay, có được những giây phút như thế là cực kỳ hiếm hoi.
Thứ hai, trong bài thơ có câu “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ” nằm ở cặp câu thơ thực của bài thơ thất ngôn bát cú. Nơi vắng vẻ là nơi nào? Là nơi “sơn lâm” (rừng núi) mà cái lẽ đời người ta thường nói “Bần cư tại thị vô nhân vấn/ Phú tại sơn lâm hữu khách tầm” (nghèo khó mà ở thành thị đông người cũng chẳng ai đến thăm/ giàu có mà ở rừng núi xa xôi hẻo lánh thì cũng có khách đến). Đọc câu thơ này của Bạch Vân Cư Sĩ (tên hiệu của Nguyễn Bỉnh khiêm), tôi lại nhớ đến một Hán tự khác, đó là chữ “tiên” (ông Tiên, ông Bụt). Theo sự hội ý của tự này thì “tiên” không phải là người trên trời mà là người trên núi (sơn). Vì chữ “tiên” được ghép bởi bộ “nhân” (như nói ở trên) và bộ “sơn” (đúng bên phải). Nghĩa là người trên núi thì gọi là tiên. Mà dân gian ta hay nói “sướng như tiên”. Vậy thì xem ra Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu có… dại!
Thứ ba, ở cặp câu kết, tác giả viết: “Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiếm bao”. Tôi xin không bàn câu thơ sau, mà chỉ bàn đến câu nói về… “tửu đạo”. Rượu, ừ thì uống chứ. Uống một cách ung dung, tự tại, chẳng ai cấm, không ai ép. Nhưng mà uống dưới gốc cây kia, uống như cụ Nguyễn Khuyến để vừa ngoạn cảnh thu Bắc bộ kia. Không phải uống ở… nhà hàng, quán bar, vỉa hè, đường phố như kiểu “lô nhô loài người” (chữ của Trịnh Công Sơn). Uống dưới “cội cây” là uống giữa thiên nhiên, uống để tịnh dưỡng. Nói đến đây tôi nhớ đến chữ “hưu” (nghỉ hưu, hưu trí) trong chữ Hán. Chữ này gồm bộ “nhân” (cũng như đã nói trên) ghép với bộ “mộc” (cây, bên phải). Nghĩa là, theo người xưa, nghỉ hưu, về hưu là về dưới gốc cây, về với vườn thiên nhiên. Chứ không phải về… trại dưỡng lão, về với bốn bức tường lạnh giá và chiếc ti vi nóng hổi, về mà ôm cháu nuôi chắt như bao cụ ông cụ bà ngày nay!
Trần Ngọc Tuấn
(Trường THPT Tây Thạnh, TP.HCM)
Bình luận (0)