|
|
Mùa xuân vốn là người bạn chung tình của nghệ sĩ. Dù có ngủ vùi trong quên lãng nhưng cảm xúc người nghệ sĩ luôn bừng tỉnh khi mùa xuân về lại với cuộc đời. Đối với họa sĩ Uyên Huy cũng vậy. Tiết trời đi vào se lạnh, năm mới không còn xa xôi nữa thì cảm hứng sáng tác của người họa sĩ cũng sống dậy với thời gian. Dịp này đến với Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM chúng ta cũng đã bắt đầu cảm nhận được mùa xuân rực rỡ với cảnh đẹp người xinh đang về hội tụ trên mỗi bức tranh tại phòng triển lãm của người họa sĩ – thầy giáo một đời lao động cống hiến hết mình cho nghệ thuật.
Ai đã từng học Trường ĐH Mỹ thuật TP.HCM đều biết họa sĩ Uyên Huy qua những tác phẩm tranh sơn dầu được làm đồ dùng dạy học trong những tiết thực hành. Người họa sĩ của hai thời đại còn được nhiều thế hệ SV tôn kính trong suốt những năm theo học ở giảng đường vì ông chính là NGND Huỳnh Văn Mười – Trưởng khoa Mỹ thuật ứng dụng của trường.
Đến với thánh đường nghệ thuật
Trước đây khi ở Đồng Tháp, tôi đã biết đến danh tiếng của họa sĩ Uyên Huy qua lời kể của thầy Trương Phi Đức – Hiệu trưởng Trường ĐH Mỹ thuật TP.HCM. Lần gặp đầu tiên, ấn tượng của tôi về ông là một họa sĩ có phong cách nghệ sĩ. Dáng người cao to, mái tóc để dài nhưng buộc rất gọn gàng và lịch lãm. Cách nói chuyện của ông mới là điều làm cho người đối diện đáng chú ý và có sức thu hút mạnh. Từng trải, gãy gọn và sâu rộng về kiến thức. Từ một cậu học trò vùng quê chưa có thiên hướng nhiều về nghệ thuật nhưng sau khi vào trường mỹ thuật “nhập môn” năm 16 tuổi được sự dìu dắt của thế hệ đàn anh đi trước nhất là các thầy giáo ở trong trường mà ngọn lửa đam mê dần dần được nhem nhóm và theo thời gian đã cháy bùng lên trong con người ông. Cứ đi mãi, đi mãi và cuối cùng ông đã tìm thấy được con đường trong nghiệp dĩ. Nhưng đó chưa phải là dấu son đậm nét nhất trong cuộc đời chàng họa sĩ tranh sơn dầu. Ra trường trong lúc bạn bè bước vào đời bằng các công việc thiết kế, đồ họa, mở xưởng vẽ thì ông lại… đi dạy học. Theo NGND Huỳnh Văn Mười, đây mới chính là bước ngoặt lớn nhất mà đến cả người trong cuộc cũng không tiên liệu được.
Một lần ngồi trò chuyện cùng ông tôi mới tường tận được câu chuyện làm nghề giáo ngoài ý muốn đó. Chính trong thời gian được học hành đến nơi đến chốn ở thánh đường nghệ thuật mà anh học trò Huỳnh Văn Mười đã thật sự “ngã mũ kính chào” tài năng và đức độ của các “sư phụ” của mình. Một thầy giáo Dương Văn Đen sáng tác giỏi, không chịu rời bục giảng dù bị căn bệnh ung thư thanh quản hoành hành. “Khi bệnh đã nặng thầy không nói chuyện được trực tiếp mà phải viết ra bằng giấy. Chúng tôi chuyền tay nhau đọc mà nước mắt chực trào” – ông nhớ lại. Một thầy giáo Bùi Văn Kỉnh trước năm 1975 kiên trung bất khuất, dù bị địch bắt giam tra tấn rất dã man nhưng vẫn trung thành với cách mạng. Ra tù bị cụt cánh tay phải nhưng thầy vẫn đi dạy để tiếp tục bí mật lãnh đạo phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên trong trường. Có biết bao thầy giáo khác đã đi qua cuộc đời ông mà mỗi người là một nguồn sáng soi đường giúp những đứa học trò như ông tìm ra lẽ sống và lý tưởng. Một thầy giáo Trương Văn Ý – bậc thầy của tranh lụa và tranh in độc bản – từng đoạt nhiều giải thưởng lớn luôn là thần tượng của nhiều SV trong trường. Đến hôm nay, ông vẫn không quên hình ảnh người thầy giáo nguyên Giám đốc Trường Quốc gia Trang trí mỹ thuật Gia Định gần gũi và thân thuộc: “Ngoài năng khiếu đặc biệt về hội họa thầy Văn Ý còn có phương pháp giảng dạy tốt và đặc biệt là trách nhiệm đối với nghề. Chính thầy chứ không ai khác đã truyền lửa và dẫn dắt tôi đến với buổi ban đầu của nghề dạy học”. Trong sâu thẳm ký ức của ông, mỗi thầy giáo như một tấm gương trong không chút bụi mờ dù thời gian đã trôi dần vào dĩ vãng. Trước khi về cõi vĩnh hằng, thầy Dương Văn Đen còn kịp để lại một gia sản vô giá là bộ tranh vẽ đàn vĩ cầm – một đề tài mà thầy đã ấp ủ từ nhiều năm với lòng ngưỡng mộ nhạc sĩ thiên tài người Ý Pa-ga-ni-ni cả một đời gắn bó với loại nhạc cụ độc đáo này. Đó cũng là lý do – mà trò chuyện với ông tôi mới biết được trong những ngày cuối năm 2010, họa sĩ Uyên Huy đã làm cho giới yêu nghệ thuật hội họa bất ngờ với cuộc triển lãm cá nhân mang tên “Trên tháng ngày đã qua”.
Món quà tri ân
62 bức tranh không chỉ là 62 mùa xuân đi qua cuộc đời người họa sĩ già, ở đó còn là 62 lời tri ân của tác giả đối với thế hệ đàn anh đi trước đó chính là những thầy giáo của trường mỹ thuật đưa anh đến với chân trời nghệ thuật. Mỗi bức tranh nhiều hình đa sắc nhưng tất cả như một lời tâm tình ngọt ngào, sâu lắng. Từng hình khối bức họa ẩn giấu trong đó những tình cảm hướng nội đúng như nhận xét của người thưởng lãm. Tất cả không trình bày trần trụi hình thể sự vật mà là tiếng nói giãi bày những cung bậc tình cảm bên trong. Ngắm thật kỹ từng bức tranh, chúng ta khó tìm thấy vóc dáng đầy đủ của con người mà tất cả chỉ là những lát cắt bất chợt vẻ đẹp mong manh của bờ vai, cánh tay, làn môi, khuôn mặt… Phảng phất hơi hướng mỹ thuật ứng dụng nên tranh của họa sĩ Uyên Huy còn thiên về trang trí hóa hình ảnh, chất thiết kế hòa quyện vào trong từng đường nét. Sự vật trên khung lụa mà tôi đã nhìn thấy từng bức tranh luôn được đưa vào một không gian không có thật thông qua ngôn ngữ trừu tượng và bán trừu tượng chỉ là cuộc dạo chơi của những vệt màu, nhát bút đầy ngẫu hứng.
Nếu nói đi dạy học là bước ngoặt thứ nhất thì bước ngoặt thứ hai trong cuộc đời của NGND Huỳnh Văn Mười là thời điểm Trường ĐH Mỹ thuật TP.HCM thành lập Khoa Mỹ thuật ứng dụng. Vào năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu mở cửa thì khuynh hướng nghệ thuật cũng không thể đứng yên một chỗ nhất là những sản phẩm nghệ thuật trong một thời gian dài không có tính ứng dụng, thiếu vắng hơi thở của cuộc sống đương đại. May mắn hơn vào giai đoạn này Bộ GD-ĐT đã cho phép mềm hóa mục tiêu và chương trình đào tạo. Ông chưa quên được những tháng ngày gian khó đó: “Không chỉ thiếu đội ngũ nhân sự mà chúng tôi còn thiếu chương trình giảng dạy cho từng phân môn trong khoa. Tất cả đều đi từ con số không”. Thế là ông cùng đồng nghiệp ngồi lại tìm cách “tự cứu mình”. “Tôi cùng anh em phân công nhau đi tìm tài liệu, sách tham khảo rồi soạn giáo án chung và sau này tự viết chương trình khung cho tất cả các môn như thời trang, quảng cáo, nội thất… Vừa làm vừa học hỏi dần dần ai cũng tích lũy được kinh nghiệm, năm sau dạy tốt hơn năm trước” – ông bày tỏ. Theo ông, bộ môn mỹ thuật ứng dụng ra đời không chỉ có giá trị thực tiễn mà còn đem lại niềm say mê và cảm hứng sáng tạo cho sinh viên. Đó là một loại nghệ thuật thị giác có vai trò thẩm mỹ hóa toàn bộ sản phẩm công cụ đời sống để thúc đẩy cạnh tranh kinh tế. Ông quan niệm, tạo hình và ứng dụng là hai bộ môn không thể tách rời nhau giống như đôi chân của một con người phải chắc chắn, vững vàng mới trụ được cả cơ thể.
Nghệ thuật không có tuổi hưu
Khi tôi hỏi về cách đánh giá năng lực sinh viên mỹ thuật thì ông đưa ra quan điểm: “Ngoài lòng yêu nghề, khả năng sáng tạo, các em phải nhanh nhạy tinh ý trong nghệ thuật, độc đáo trong ý tưởng. Bài học ở trường là không thể thiếu nhưng bài học ngoài đời cũng rất quan trọng. Người họa sĩ “nằm ngủ yên trong tháp ngà” thì làm sao “đẻ ra được” tác phẩm có giá trị. Nghệ thuật là khoa học sáng tạo nghiêm túc, trí tuệ chứ không phải là một trò chơi, bởi không có khái niệm sân chơi trong nghệ thuật. Vì thế người cầm cọ phải khổ luyện và biết cống hiến”. Ông đã kể cho tôi những gương mặt học trò thành đạt như nhà thiết kế thời trang Minh Hạnh, Sĩ Hoàng, Ngô Thái Uyên… trong đó có không ít người học hành bị đứt đoạn do hoàn cảnh nhưng vẫn “thăng hoa” với đời bằng chính năng khiếu và một tình yêu lớn lao đối với nghệ thuật. Ông bảo, chất nghệ sĩ không thể hiện qua cách ăn mặc, tác phong, cử chỉ mà phải được thể hiện trên tác phẩm, trong tâm hồn người cầm cọ.
Theo ông, học ngành nghệ thuật đã khó, làm thầy giáo nghệ thuật càng khó hơn: “Muốn dạy được các em trước hết phải là một giáo viên sáng tác giỏi và cầm cọ thường xuyên để có được nhiều kinh nghiệm để truyền đạt bí quyết cho sinh viên. Bài giảng có sức hút khi mọi kiến thức hàn lâm trong giáo án được chuyển tải bằng phương pháp linh hoạt, dễ hiểu chủ yếu là gợi và hướng các em đi theo từng con đường riêng của mình. Một ông thầy giỏi theo tôi phải tôn trọng tự do sáng tạo cá nhân, biết quý những sản phẩm mà học trò của mình làm ra dù đạt hay chưa đạt yêu cầu chứ không được áp đặt một cách chủ quan, cảm tính. Đó là lối mở vừa định hướng nghệ thuật vừa vun đắp nhiệt huyết cho các em”. Ông ghét đường họa “ăn theo bắt chước”, thiếu phong cách riêng dễ làm cho họa sĩ trở thành cái bóng vô hồn của người khác.
So với thế hệ ông, sinh viên trẻ hiện nay có nhiều thuận lợi hơn trong việc tiếp cận các trường phái nghệ thuật trong và ngoài nước thông qua mạng internet và các cuộc triển lãm lớn. Vì thế dù đã lùi vào “hậu trường bục giảng” ông thật sự an tâm với một thế hệ giáo viên có đủ tài đức như thầy Nguyễn Long, thầy Bạch Huyền Linh, Lê Phi Hùng, cô Phạm Như Linh, cô Trương Thị Thịnh, cô Nguyễn Thị Bảo Ngọc và những thầy cô khác đã lớn lên trong ngôi nhà Câu lạc bộ giảng viên trẻ của trường. Bên cạnh đó, ông luôn quý trọng những bài tập và sáng tác của các họa sĩ nữ vì con đường nghệ thuật đối với chị em gian nan hơn nhiều mà không phải người phụ nữ nào dù có tài năng thật sự cũng dám dấn thân vào.
Dù không còn công tác ở trường nhưng hàng tuần ông vẫn ghé vào “ngôi nhà xưa” Trường ĐH Mỹ thuật và dòng chảy sáng tác của ông vẫn không ngừng trôi. Vì theo ông “nghệ thuật không hề có tuổi hưu mà luôn trẻ mãi như chính mùa xuân giữa cuộc đời”. Ông đã từng tuyên bố:“Tôi về hưu với tư cách nhà giáo chứ không với tư cách người nghệ sĩ”. Một con người gắn bó với những sắc màu trên giá vẽ và trọn đời chung thủy cống hiến hết mình cho hội họa.
Phan Ngọc Quang
|
Sau 10 năm được công nhận danh hiệu Nhà giáo ưu tú, năm nay ông đã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu NGND trong dịp 20-11. Với vai trò là Ủy viên BCH Hội Mỹ thuật Việt Nam và Chủ tịch Hội Mỹ thuật TP.HCM, NGND Huỳnh Văn Mười còn là “người nhạc trưởng” tài ba biết tập hợp một lực lượng sáng tác từ nhiều nơi về tụ hội trong ngôi nhà chung của nghệ thuật trên tinh thần tôn trọng, bình đẳng, hòa đồng để có những sáng tác đi đúng chủ trương đường lối, đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của thời đại và mọi đối tượng.
|


Bình luận (0)