Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

“Trường bà Mười” mắc cười lắm!

Tạp Chí Giáo Dục

Bà Mười đang phát kẹo cho lũ trẻ trong lớp học. Thỉnh thoảng, bà lại có những phần thưởng để khuyến khích các em học hành tiến bộ

Bà bảo “Thôi viết làm chi con! “Trường bà Mười” mắc cười lắm!”. Không biết từ khi nào, cái lớp học của bà lại được gọi là “trường bà Mười”. Và cũng không biết từ bao giờ, “ngôi trường” ấy đã trở thành một địa chỉ không thể thiếu của những đứa trẻ và người dân ven bờ kênh Tẻ (Q.7, TP.HCM) này.
Duyên với “nghề”
Tên thật của bà là Lữ Thị Lệ Nương. Nhưng từ lâu, cư dân nơi đây đã quá quen và gọi bà với cái tên thân mật: Bà Mười. 71 tuổi, bà vẫn chưa già. Già sao được khi đều đặn mỗi ngày bà vẫn tới lớp với những đứa trẻ không nhà, không hộ khẩu và không luôn cả cái tên để được luật pháp biết đến. Gọi là trẻ, chứ thật ra tụi nó lớn hết cả rồi. Trong cái đám ấy, đứa bé nhất cũng phải tầm 7-8 tuổi, còn đứa lớn chừng 15, 16 hay còn hơn thế nữa. Không ra quản, tụi nó đánh nhau, ba mẹ chúng biết được lại không cho theo học nữa. Vậy mà cái đám trẻ ấy lại được bà thương hết lòng. Đã 12 năm nay, bà chăm chút và dạy dỗ cho từng đứa, chỉ cho chúng biết chữ, biết số, biết những bài học đạo đức để bước vào đời. Không biết từ bấy đến giờ có bao nhiêu đứa đã được “tốt nghiệp” trường bà Mười, trở thành những anh xe ôm, chị bán vé số, cô công nhân hay chỉ đơn giản là theo những chuyến ghe rày đây mai đó. Bà bảo, bà chẳng mong gì hơn là chúng nó thành người tốt. Bà mừng!
Kể cũng lạ, cái nghiệp “gõ đầu trẻ” đến với bà Mười cũng thật tình cờ. Trước đây, bà có đứng lớp bao giờ đâu, có chăng cũng chỉ làm gia sư cho một vài cậu ấm, cô chiêu. Nhưng đó là cái thời xa lắm rồi, hồi trước giải phóng kia. Rồi bà lấy chồng, chăm lo việc nhà và con cái. Gắn với dòng kênh Tẻ này đã nhiều năm nên bà thấy được hết cuộc sống phức tạp và nhọc nhằn của những người dân nơi đây. Họ rong ruổi từ vùng này qua vùng khác trên những chiếc ghe. Họ là anh cửu vạn, xe ôm và cả những tay “anh chị” từ khắp nơi đổ về. Miếng cơm manh áo ngày thường còn chẳng đủ no thì lấy đâu tiền cho con đi học. Mà học làm gì kia chứ, bản thân bố mẹ chúng nó có cần chữ nghĩa gì đâu mà vẫn sống được, vẫn kiếm ăn được đấy thôi. Vậy là nguyên một đoạn kênh chẳng có mấy đứa được đến trường. Chúng lớn lên trong tiếng chửi thề của ba mẹ, trong sự bon chen và đủ thứ tệ nạn trên đời. Con chữ với chúng là cái gì xa xôi và mơ hồ lắm. Cuộc sống khó khăn, lại chẳng ai dạy bảo tử tế, lũ nhóc sinh tật ăn cắp vặt, hễ ai hớ hênh cái gì là chúng lấy. Bản thân chúng cũng không biết ăn cắp là xấu, nhiều lúc lấy trộm đồ chỉ vì ý thích. Bị mất đồ, nhiều người trở nên ghét và cảnh giác với lũ “ma cô nhí” này. Bà trăn trở nhiều lắm, chỉ mong có một tổ chức nào gom mấy đứa lại, dạy dỗ cho chúng biết lẽ phải, trái.
Nhiều lần, nghe mấy đứa nhỏ thủ thỉ “bà Mười ơi! con muốn được tới trường”, lòng bà lại dâng lên một nỗi xót xa khôn tả. Đến năm 1999, điều mong mỏi của bà mới trở thành sự thật khi một số giáo viên tình nguyện từ “Dự án tương lai của thành phố” đã xuống dạy chữ cho lũ trẻ. Lớp học được đặt ngay dưới những bóng cây ven đường. Nhiều lần đi qua, nghe tiếng ê a đánh vần của lũ trẻ, trong lòng bà vui lắm! Nhưng rồi lớp học ấy cũng chỉ tồn tại được một thời gian thì những giáo viên này lại phải chuyển tới địa bàn khác. Vậy là lũ trẻ lại phải trở về với cuộc sống mót nhặt thường ngày. Không đành để chúng bỏ học, bà Mười đã mạnh dạn đứng ra tiếp quản, rồi gom thêm mấy đứa nữa tổ chức thành lớp học. Học dưới gốc cây, bà thấy tụi nhỏ không tập trung vì khói bụi, xe cộ, những chuyện lề đường… nên bà đã đưa chúng về nhà mình. Khoảng sân nhỏ chưa đầy 10m2 được bà trưng dụng tối đa để làm chỗ cho chúng lê la học bài. Hết được “lượm” ngoài đường, lũ nhỏ lại chuyển qua “lượm”… đồ đạc trong nhà bà. Những vật dụng từ đôi dép cho tới chiếc xe đạp lần lượt “đội nón” ra đi. Biết tính chúng, bà không giận mà chỉ nhẹ nhàng khuyên bảo, 10 đứa cũng có 7 đứa nhận ra, mang đồ trả lại cho bà.
Nặng lòng với trẻ nhà nghèo
Tin bà Mười mở lớp dạy không lấy tiền đã có nhiều “học trò” tìm đến. Khoảng sân nhà bà trở nên chật chội. Bà phải mượn điểm tiếp dân của khu phố để làm chỗ dạy học. Từ khi “mở trường” tới nay, “trường bà Mười” đã phải di chuyển tới 6 lần. Cũng có lúc, bà mượn được cái kho rộng rãi của một công ty đã giải thể, lũ trẻ tha hồ quậy mà không sợ bị rầy la. Thế nhưng, phòng ốc xập xệ, điện không có nên lớp học cứ tối om, đáng ngại hơn cả là đàn muỗi. Lớp học cứ vài bữa lại vắng một đứa vì bị sốt xuất huyết. Có lần, một đứa xô bạn ngã tét đầu, bà lại cùng mẹ nó canh chừng mấy ngày đêm trong bệnh viện. Thằng nhóc kể cũng tội, ba không có, mẹ nó một mình bán vé số nuôi con. Nghe bà trình bày hoàn cảnh, cô bác sĩ thương tình, bỏ tiền ra trả viện phí cho nó. Sau vụ đó, bà sợ nên tất tưởi đi tìm cho lũ trẻ chỗ học khác. May mắn, bà được mấy cán bộ ở phường cho mượn Trung tâm Học tập cộng đồng Q.7. Và lớp học bắt đầu ổn định từ đó. Tuy bàn ghế hơi cũ nhưng có điện và nước uống, bà bỏ thêm ít tiền để sửa sang lại cho gọn gàng, sạch sẽ. Gọi là lớp học cũng được mà gọi là “trường” cũng chẳng sai. Bởi trong căn phòng đó, đứa lớn học cùng đứa bé, “đàn anh, đàn chị” lớp 4, 5 học cùng “đàn em” lớp 1, 2, 3. Dạy tụi trẻ, bà phải lựa lời để không làm chúng tự ái. Cái nghiệp của bà là vậy, mở lớp học từ thiện nhưng luôn phải nhẹ nhàng, không quát mắng để giữ học trò. Cũng có lúc đi vận động mấy đứa trẻ bị ba mẹ bắt bỏ học, bà buồn khi nghe họ nói “lớp có mấy đứa, học hành cái gì”. Đôi lúc bà cũng buồn lắm! Công sức bà bỏ ra chẳng thấm tháp vào đâu trong mắt họ. Nhưng chính nỗi buồn đó lại cho bà thêm ý chí để lo cho lũ nhỏ tốt hơn.
“Trường bà Mười” hoạt động tối đa cả ba ca và giờ học khá trễ để tụi nhỏ rảnh lúc nào thì tới học lúc đó. Đều là con nhà nghèo nên nhiều đứa phải bươn chải từ rất sớm. Có đứa theo xe rác của ba từ 4 giờ sáng cho tới trưa, chiều về mới được vào lớp. Lại có đứa sáng phải dậy sớm bán hết rổ khoai lang luộc rồi mới được vào lớp, chiều về lại tất tả đi mua khoai, tối luộc khoai để kịp sáng mai đi bán. Có đứa mới 13 tuổi, học lớp 2 nhưng đêm đêm đã phải theo xe hàng của ba làm “lơ”… Hơn 50 đứa trẻ theo học với bà là hơn 50 hoàn cảnh khác nhau, đứa nào bà cũng thương, cũng dạy dỗ như chính những đứa con của mình. Nhiều đứa nhắm chừng muốn bỏ vì học không vào, bà động viên “Ráng học đi con. Mai mốt biết chữ bà Mười làm giấy khai sinh cho vào trường công mà học. Không học được thì bà xin cho vào trường nghề”. Tụi nhỏ tin răm rắp vì chẳng bao giờ bà nói dối. Và bà đã làm thật. Đứa nào muốn học lên cao, học trường khác, bà đến tận nhà hỏi địa chỉ quê quán để rồi tìm đến tận nơi làm giấy khai sinh. Lũ trẻ ở đây đều là dân tứ xứ đổ về, chẳng đứa nào có giấy khai sinh. Có lúc, ba mẹ chúng sợ phiền hà, chỉ lung tung khiến bà phải đi lại nhiều lần. Nhưng bà không nản chí, bởi lo được cho tương lai chúng chừng nào, bà mừng chừng ấy. Trong số những “học sinh” của bà, có đứa đã học đến lớp 11 tại Trung tâm GDTX Q.7. Nhiều đứa nghe lời bà nay đã trở thành những công nhân lành nghề. Nó còn tự hào khoe với bạn là “Ngày xưa tao học trường bà Mười đó!”.
Bây giờ, bà đã lên chức… “hiệu trưởng”, không còn đứng lớp nữa. Người thay thế bà là hai thầy cô đến từ hai trường tiểu học gần đó, mỗi người được bà hỗ trợ 700.000 đồng/ tháng. Để có số tiền đó, bà phải bán gạo, bán tạp hóa, thu hẹp diện tích nhà để mở quán. Nhiều lần sắp đến hạn trả lương cho giáo viên, bà phải đi vay mượn vì kẹt tiền. Bà nghĩ, họ đã gắn bó với bà 3, 4 năm nay. Họ đã không quản ngại nắng gió, bỏ công, bỏ sức ra dạy lũ trẻ nên người, không thể trả hơn thì thôi, chứ bà nhất định không để chậm trễ. Hai đứa học sinh đánh nhau bị cô đuổi ra khỏi lớp, bà biết được đã nhắc nhở cô giáo: “mở lớp ra là để cho tụi nhỏ học, đuổi về tụi nó biết đi đâu, nhỡ nó lang thang bên ngoài, gây thêm chuyện thì lại lôi thôi nữa…”.
Vào mỗi dịp Tết, bà đều phát gạo, quà bánh, quần áo cho lũ trẻ. Điều mà bà luôn mong mỏi ở lũ trẻ là chúng trở thành người tử tế, không bị phân biệt đối xử khi học tại những ngôi trường khác. Bà luôn dành cho chúng trọn vẹn tình yêu thương của một người mẹ, người bà để sau này nếu trên bước đường đời bị sa ngã, sẽ có lúc bất chợt chúng nhận ra rằng đã có những người từng yêu thương, khuyên răn mình thành người tốt.
Bài, ảnh: Ngọc Anh
Hoạt động của bà đã được nhiều tổ chức ban ngành ghi nhận. Nhưng với bà, phần thưởng lớn nhất chính là sự trưởng thành của từng đứa trẻ, chúng biết đọc, biết viết, biết phân biệt đúng sai và cư xử tốt với mọi người xung quanh là bà vui lắm rồi!
 

Bình luận (0)