Năm học (NH) 2008-2009, Bộ GD-ĐT đã xác định việc “Củng cố và phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT)” là một trong ba chương trình lớn cấp quốc gia giai đoạn 2009-2015. Đầu tháng 11/2008, lần đầu tiên Bộ GD-ĐT tổ chức Hội nghị giao ban các trường PTDTNT toàn quốc tại Nha Trang, thu hút hơn 200 đại biểu tham dự.
Bức tranh nhiều màu sắc
Tổng kết NH 2007-2008 vừa qua cho thấy có 49 tỉnh, thành phố có 283 trường PTDTNT, trong đó có 7 trường trung ương; 47 trường tỉnh; 229 trường huyện với gần 86.000 học sinh (HS). Quy mô trường lớp, GV & HS không có biến động nhiều, thiếu một số GV Toán; Tin học; Công nghệ; Tổng phụ trách Đội và Ngoại ngữ ở NH mới 2008-2009.
NH vừa qua và NH này, các trường PTDTNT trung ương và huyện chủ yếu tuyển sinh kiểu cử tuyển, còn đa số trường PTDTNT các tỉnh vừa thi tuyển kết hợp xét tuyển. Tỷ lệ tuyển sinh đạt chỉ tiêu từ 86,1 –> 96,6% . Một số dân tộc thiểu số đặc biệt ít người rất khó tuyển sinh là : Ơ Đu; La Hủ; Lự; Ngái; Máng; Si La; Pu Péo; B’Râu’; Đan Lai… NH vừa qua chỉ tuyển được 39 em các dân tộc này vào trường PTDT vùng cao Việt Bắc.
Khó khăn lớn nhất là chất lượng “đầu vào” lớp 6 và lớp 10 của các trường PTDTNT nhìn chung khá thấp so với các trường phổ thông bình thường, tỷ lệ HS bỏ học còn cao. Số HS học lực yếu kém ở một số tỉnh khá nặng nề như : trường PTDTNT tỉnh Quảng Ngãi 29,7%; các trường THCS DTNT ở tỉnh Kon Tum 25,9% và THPT DTNT tỉnh Kon Tum là 43,51% (NH 2007-2008)…
Trong 50 trường PTDTNT trung ương và các tỉnh, có 9/50 trường (18%) có tỷ lệ tốt nghiệp THPT NH 2007-2008 dưới 50%; 19/46 trường PTDTNT tỉnh (41,30%) có tỷ lệ thi đỗ tốt nghiệp thấp hơn tỷ lệ chung của tỉnh… Tỷ lệ HS trúng tuyển vào các trường ĐH, CĐ, TCCN còn rất thấp, số HS sau khi tốt nghiệp chưa được đào tạo nghề còn cao (Đắk Nông 70.68%; Đắk Lắk 77,6%; Lai Châu 53% v.v…).
Nhiều GV dạy lâu năm ở các trường PTDTNT cho biết : có không ít tiết dạy phải tăng gấp đôi gấp ba thời lượng, thì các em mới theo kịp chương trình. Hầu hết các trường PTDTNT đã dành cả tháng hè để phụ đạo cho HS yếu kém. Vào học chính khoá, các em được học 2 buổi/ngày, được học giãn tiết các môn : Toán; Văn; Tiếng Anh; Lý; Hoá; Sinh. Dạy gấp rưỡi, gấp đôi số tiết so với quy định, song hầu như GV các trường PTDTNT không được trả thù lao xứng đáng (HS dân tộc đi học – kể cả học thêm, học phụ đạo, học bồi dưỡng – đều được miễn phí hoàn toàn). Đây là một sự bức xúc lớn, riêng ngành GD & ĐT không đủ sức giải quyết…
Tuy vậy, bức tranh các trường PTDTNT vẫn nổi lên nhiều điểm sáng. Nhiều tỉnh, thành đã ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường này, đồng thời ưu tiên bố trí GV dạy giỏi có tâm huyết, tăng cường kiểm tra giúp đỡ các trường PTDTNT. Kết quả NH vừa qua, các trường THCS DTNT tỉnh Tuyên Quang có 62%; trường PTDTNT tỉnh Hoà Bình có 63,1%; trường PTDTNT tỉnh Nghệ An có 79,6% HS đạt học lực khá giỏi… Thi tốt nghiệp THPT NH 2007-2008 lần 1, thống kê từ 50 trường PTDTNT trung ương và các tỉnh đạt tỷ lệ bình quân 76,50% thi đỗ (tỷ lệ bình quân cả nước là 75,96%) – tăng 6,19% so với NH trước. Riêng 2 trường PTDTNT tỉnh Tuyên Quang và Bắc Giang thi tốt nghiệp THPT đỗ 100%.
Cần kể thêm. Trường PTDTNT tỉnh Thanh Hoá có 60/74 HS tốt nghiệp THPT lần 1 đã thi đỗ ĐH nguyện vọng 1 (có 1 HS đạt giải thưởng Hoa Trạng Nguyên). Trường PTDTNT tỉnh Nghệ An có 142/186 HS trúng tuyển ĐH, CĐ. Trường PTDTNT tỉnh Quảng Nam có 83/113 em thi đỗ CĐ, ĐH…
Bất cập về biên chế và chính sách
Nhận định của Bộ GD & ĐT : Số GV giỏi về nhận công tác ở các trường PTDTNT chưa nhiều. Nguyên nhân chủ yếu có lẽ do dạy ở các trường này quá vất vả, mà thu nhập không hơn gì ở các trường phổ thông bình thường. Đã thế ở các NH trước, định mức biên chế GV/lớp ở các trường PTDTNT cũng giống như các trường phổ thông bình thường cùng cấp, khiến đa số GV dạy ở các trường PTDTNT luôn luôn căng thẳng vì quá tải. Nhiều CBQL & GV trường PTDTNT chưa được bồi dưỡng các chuyên đề về GD đặc thù như : quản lý tổ chức HS nội trú; tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp cho HS dân tộc … NH 2008-2009, định mức biên chế GV/lớp ở các trường PTDTNT có tăng lên từ 2,2 –> 2,4 GV/lớp cũng là thay đổi đáng mừng. Tuy nhiên các trường PTDTNT vẫn đang thiếu trầm trọng cán bộ – GV – nhân viên quản lý, chăm sóc HS ăn ở nội trú. Nói cách khác, các trường PTDTNT lâu nay chỉ mới đủ sức tập trung cho dạy học; còn khâu quản lý, chăm sóc HS ăn ở nội trú thì chưa được quan tâm chu đáo…
Cũng khó mà chăm sóc chu đáo việc ăn ở cho HS. Hiện nay, HS PTDTNT đang được hưởng học bổng 432.000đ/HS/tháng theo Thông tư Liên Bộ số 43 ngày 2/5/2007 của Bộ Tài chính và Bộ GD-ĐT. Ngoài ra các em còn được hưởng các chế độ : miễn học phí; miễn lệ phí thi tốt nghiệp và tuyển sinh; trợ cấp tiền tàu xe về thăm gia đình hoặc về nghỉ hè nghỉ Tết; hỗ trợ chi phí điện-nước-học phẩm… Tuy nhiên các khoản hỗ trợ này không đáng kể. Đã 2 tháng NH mới trôi qua, vẫn còn một số tỉnh chưa cấp đủ kinh phí nói trên cho các trường PTDTNT, hoặc là cấp không đủ định mức học bổng quy định… Trong “cơn bão giá” hiện nay, mức học bổng 432.000đ/HS/tháng dành cho HS PTDTNT, rõ ràng chỉ giúp các em tạm đủ sống độ 20 ngày, chưa tính chi phí điện nước, đi lại cũng đã tăng. Do đó định mức học bổng này cần được nâng lên bằng mức lương tối thiểu sắp tới do Nhà nước quy định…
Đổi mới hoạt động các trường PTDTNT
Song song với việc thực hiện nghiêm các nhiệm vụ chủ yếu của NH 2008-2009 do Bộ GD & ĐT đã quy định cho các trường phổ thông cả nước, các trường PTDTNT cũng có nhiệm vụ riêng. Theo TS Mông Ký S’Lay – Vụ trưởng Vụ GD Dân tộc (Bộ GD & ĐT) : NH 2008-2009, đảm bảo các huyện có đông HS dân tộc phải có ít nhất 1 trường PTDTNT. Không mở rộng quy mô các trường PTDTNT khi chưa hội đủ các điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất và đội ngũ GV. Khắc phục tình trạng HS không hưởng học bổng đông gấp nhiều lần HS PTDTNT trong các trường PTDTNT; hạn chế thấp nhất tỷ lệ HS hưởng chế độ PTDTNT nhưng không ở nội trú, không tham gia các sinh hoạt tập thể trong trường PTDTNT. Từng bước chuyển hình thức tuyển sinh từ cử tuyển sang kết hợp với thi tuyển, nhằm tuyển chọn được những HS ưu tú nhất của các dân tộc thiểu số, để tạo nguồn nhân lực quan trọng sau này cho vùng cao, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn.
Đinh Lê Yên
Theo Giáo dục & Thời đại
Bình luận (0)