Đọc Truyện Kiều, ai cũng biết chuyện Thúy Kiều nhờ Từ Hải mà đền đáp ân nghĩa và báo trả oán thù. Mở đầu cho câu chuyện ấy, Nguyễn Du viết: Trong quân có lúc vui vầy/ Thong dong mới kể sự ngày hàn vi. Tại sao lại để lúc vui vầy (vui vẻ, sum họp)? Tại sao lại thong dong (thư thái, nhàn nhã)? Ấy cũng là một sự cố ý của cụ Nguyễn. Từ Hải ra quân bắt bớ trả thù cho Kiều hay đền ơn nghĩa, tất cả không phải là Thúy Kiều yêu cầu, Thúy Kiều đề nghị. Chỉ là lúc vui vẻ, sum họp, lúc thư thái nhàn nhã Kiều kể cuộc đời quá khứ cho Từ nghe. Nghe Kiều nói: Khi Vô Tích, khi Lâm Truy/ Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương và Kiều cũng tâm sự: Chút còn ân oán đôi đường chưa xong, chỉ thế thôi mà Từ bất bình, Từ nổi giận. Phải chăng trong sâu xa tâm hồn người anh hùng ấy là lẽ công bằng, là bất bình với xã hội bất công? Phải chăng hành vi của Từ và đạo quân đang có trong tay Từ là hành động vì nghĩa?
Chỉ có thể cắt nghĩa như thế nên Từ công mới nghe nói thủy chung thì đã bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang! Từ nổi giận hay đất trời nổi giận? Hay sự nổi giận của vị anh hùng đội trời đạp đất ngang với sự nổi giận của đất trời?
Vừa mới nổi trận đùng đùng đã thấy nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng (…) Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy.
Nhớ lại, cũng có một người “yêu Thúy Kiều” bực tức cho hoàn cảnh của Kiều. Hắn ta la lối om sòm: Thuyền quyên ví biết anh hùng/ Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi. Hắn là Sở Khanh, anh hùng giả, lời nói không thật. Hắn đểu giả, vờ vĩnh làm kẻ kiến ngãi bất vi vô dũng giã… Còn Từ là tự sâu thẳm trong đáy lòng. Quân của Từ cũng vậy. Bởi trước lễ xuất quân ấy, Từ có làm lễ thệ sư. Cụ Bùi Kỷ chú: Thệ sư: “Tế lễ cáo trời đất, quỷ thần về việc sai quân đi bắt những người thù, và hiểu dụ tướng sĩ trước khi sai đi”. Quân lính của Từ cũng là đội quân vị nghĩa. Dự lễ thệ sư: Lòng lòng cũng giận người người chấp uy!
Thêm một điều nữa, ta hiểu đạo quân của Từ. Họ ra đi dưới ngọn cờ đào… Chẳng biết đạo quân ấy trước và sau khi báo ân báo oán họ có làm điều gì sai trái không, nhưng ở thời điểm này, lúc này, lúc mà thay trời hành đạo ta thấy rõ nghĩa khí của họ.
Mấy câu thơ đọc lên nghe sảng khoái, hả hê: Từ công nghe nói thủy chung/ Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang/ Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng/ Dưới cờ một lệnh vội vàng ruỗi sao/ Ba quân chỉ ngọn cờ đào/ Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy. Ta hình dung đạo quân ấy: Nào tướng, nào quân, nào trên đầu là lá cờ đào, dưới đất đội ra, đội vào, họ truy nã nhanh như những ngôi sao đổi ngôi (ruỗi sao)! Ra quân là vậy, việc làm cũng hoàn tất mỹ mãn. Mấy người phụ bạc xưa kia/ Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra/ Lại sai lệnh tiễn truyền qua/ Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên/ Mụ quản gia, Vãi Giác Duyên / Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời… Nguyễn Du kết luận: Đạo trời báo phục chỉn ghê/ Khéo thay một mẻ tóm về đầy nơi!
Khi nào người bình dân dùng từ một mẻ? Ấy là lúc kéo cá: Lớn nhỏ, cua cá, tóm gọn. Dùng hai chữ một mẻ lại đi liền với từ tóm, đủ biết đội quân của Từ là một đội quân hùng mạnh mà từ sâu xa cũng là một đội quân vị nghĩa!
Lê Xuân Lít

Bình luận (0)