Tạp Chí Giáo Dục TP.Hồ Chí Minh
Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Từ “hoa” trong thơ Đường

Tạp Chí Giáo Dục

Miêu tả cỏ cây, hoa lá, chim muông là truyền thống của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Thơ thời Tiền Tần, Lưỡng Hán đề tài cây, hoa lá rất phong phú…
Trong Kinh Thi – tập cổ thi dân gian đầu tiên có bài Đào yêu nói về “hoa đào tơ rực rỡ lá hoa” (Đào chi yêu yêu chước chước kỳ hoa). Ly tao – một trường thi trữ tình của Khuất Nguyên – dài 373 câu, có 2.900 chữ mà nhà thơ miêu tả hơn 100 loài hoa khác nhau. Đến đời Đường, thơ về hoa mới thực sự là một vườn ngự uyển.
“Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” là đề tài thường thấy trong thơ Đường (618-907), trong đó trăng, hoa được nói đến rất nhiều.
1. Dường như đã thành tục lệ hàng năm, cứ mỗi lần xuân về Tết đến tôi tìm đọc lại những vần thơ cổ Đông phương để tìm hiểu cách cảm, cách nghĩ của người xưa về con người, về đất trời, cỏ cây, cảnh vật và muông thú thiên nhiên… Tôi lần giở lại những bài Đường thi ra đời cách đây hơn 1.500 năm đã có biết bao từ “hoa” hiện lên mênh mông đậm đà hương sắc của mùa xuân.
Cũng một từ “hoa” mà các thi nhân đời Đường có nhiều cách diễn tả khác nhau. Nhà thơ Trần Tử Ngang dùng “tuế hoa” để chỉ “hoa trong năm và trong mùa”. Nhà thơ Trương Húc nói “đào hoa” là “hoa đào”. Đời sau dựa vào từ “đào hoa” của ông mà chỉ số tốt lành may mắn của con người trong cuộc sống tình ái. Nhà thơ Trương Nhược Hư có bài thơ Xuân giang hoa nguyệt dạ nổi tiếng mà trong đó ba lần ông dùng đến chữ “hoa” nhưng nghĩa khác nhau: “Hoa lâm” chỉ “rừng hoa”, “nguyệt hoa” chỉ “trăng hoa” và “lạc hoa” chỉ “hoa rơi hoa rụng”… Nhà thơ Trương Duyệt tả “hoa mai tự tuyết” (hoa mai trắng như tuyết) và “tuyết như mai” (tuyết trắng như mai). Ông cũng nói đến “niên hoa” để chỉ “mùa xuân và tuổi trẻ qua đi”. Từ “niên hoa” về sau này được nhà thơ Tế Hanh dùng để chỉ tập thơ của mình ra đời trước cách mạng – Tuổi hoa niên.
Chẳng những hoa đào (đào hoa), nhà thơ sơn thủy điền viên Mạnh Hạo Nhiên còn nói đến “hoa cúc” (cúc hoa) với câu thơ rất hay: “Chờ đến  mùa trùng cửu, chờ xem cúc nở hoa”. Nhà thơ Vường Duy có từ “hoa vị” để tự hỏi “Cây hàn mai” đã “chớm nở hoa chưa”? Nhà thơ Lý Bạch có từ “như hoa”, “đảo hoa” (hoa trên hòn đảo), “hoa tử” (hoa màu tía), “tác hoa” (tung hoa), “vô hoa” (không nhìn thấy hoa), “hoa hàm yên” (hoa ngậm khói), “hoa gian” (trong đám hoa), “chiết hoa” (bẻ hoa), “liễu hoa” (hoa cây liễu), “lộ hoa” (hoa đượm sương)… Nhà thơ biên tái Sầm Tham có từ “cựu thời hoa” để chỉ “hoa thời xưa”, có từ “hoa khai” để nói “hoa nở” với nhiều cảm xúc và cách nghĩ của nhà thơ về hoa bốn mùa.
Các thi nhân đời Đường còn dùng từ “ngũ hoa”, “bách hoa” để chỉ số lượng hoa là “năm loại hoa”, “100 loại hoa”. Thơ Đường không dùng từ “hoa viên” mà dùng từ “viên hoa” để chỉ “vườn hoa” (thơ Vương Hàn). Nhà thơ Thường Kiến cũng không dùng “ánh hoa” mà dùng từ “hoa ánh” để chỉ màu sắc phản chiếu của hoa. Ông cũng dùng từ “hoa ảnh” để chỉ bóng hoa, ảnh của hoa với cách nhìn rất tinh tế và dạt dào xúc cảm trước mùa xuân.
2. Hoa trong thơ Đỗ Phủ chan hòa máu và nước mắt. Nói đến hoa buồn trong thơ ông không ai là không nhớ câu: “Cảm thời hoa tiễn lệ” (cảm thương thời thế đến nỗi làm cho hoa cũng rơi nước mắt). Ông cũng có từ “phiến hoa” (cánh hoa), “tận hoa” (hoa sắp hết rồi). Từ “xuyên hoa” trong thơ ông mới lạ, có nghĩa là “tuồn hoa” (xuyên qua hoa), “giang hoa” (hoa trên sông). Người đọc rất buồn trước ý thơ “Hoa rơi lệ” qua bài Xuân vọng của ông.
Nhà thơ Vi Ưng Vật có từ “nghiên hoa” được hiểu là “chỉ riêng có hoa”. Nhà thơ Lưu Phương Bình nhắc đến hoa lê trong từ “lê hoa”. Nhà thơ Tư Không Thự dùng từ “lô hoa” (hoa lan). Nhà thơ Vương Kiến có từ “cung hoa” (hoa trong cung). Trong bài Tỳ bà hành, nhà thơ Bạch Cư Dị miêu tả tiếng chim oanh hót trong bụi hoa qua câu “Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt”. Ông cũng dùng từ “hoa triêu” để chỉ “hoa buổi sớm mai” rất đẹp, làm say đắm lòng người yêu hoa khi nghĩ đến hoa.
Trong bài Âm tửu khán mẫu đơn (Uống rượu ngắm hoa mẫu đơn) nhà thơ Lưu Vũ Tích đã nhân cách hóa hoa như người: Đãn sầu hoa hữu ngữ/ Bất vị lão nhân khai (Chỉ e hoa nói lên lời/ Em không phải nở cho người già nua).
Câu thơ rất hay vì sự nhân cách hóa – hoa biết nói, biết đùa vui theo phong cách trữ tình, lãng mạn của loài hoa. Câu thơ “Hoa không phải nở cho người già nua” làm cho người đời sau thán phục về tứ thơ sâu sắc của ông.
Nữ sĩ Đỗ Thị Nương có câu thơ rất hay, giàu ý nghĩa mà trong đó có từ “vô hoa” (hoa rụng). Nhà thơ Chu Khánh Dư có từ “hoa thì” – có nghĩa là “hoa đến lúc nở” (từ đó có thể hiểu từ “dậy thì” để chỉ thiếu nữ đang tuổi lớn). Nhà thơ Lý Thương Ẩn có bài thơ Tảo khởi (Dậy sớm) miêu tả tâm trạng mừng vui, hồ hởi của con người dậy sớm trong mùa xuân khi chim kêu, hoa nở và hoa cười: Oanh đề hoa hựu tiểu/ Tất cánh thị thùy xuân (Hoa cười oanh nói trên cành/ Gẫm xem xuân sắc trời dành cho ai?).
3. Hoa gắn liền với mùa xuân. Mối liên hệ ấy được các thi nhân đời Đường liên tưởng trong thơ thông qua cách dùng từ ngữ. Nhà thơ Thôi Đồ có câu thơ miêu tả đêm xuân: “Lưu thủy hoa tạ lưỡng vô tình” (Nước chảy, hoa tàn, cả hai đều vô tình). Nhà thơ Thôi Hộ có câu thơ bất hủ về con người, gió xuân và hoa xuân trong bài thơ bất hủ Đề Đô thành Nam trang. Hai câu thơ cuối của bài thơ được coi là “giai cú” và “lệ cú” mà đời sau không ai viết được.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Thi hào Nguyễn Du đã lấy hai câu thơ này đưa vào Truyện Kiều bằng câu thơ nôm sau đây: Trước sau nào thấy bóng người/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông!
“Hoa đào” (đào hoa) và “Gió đông” (đông phong) về sau là đề tài và cảm hứng của các thi nhân Việt Nam khi nghĩ về mùa xuân, tình yêu và hạnh phúc. Tác phẩm Bích câu kỳ ngộ có câu thơ “họa” lại câu thơ của Thôi Hộ:  “Hoa đào còn đó trơ trơ, mà người năm ngoái bây giờ còn đâu?”. Từ đó “Hoa đào” là hình tượng chỉ thiếu nữ và “gió đông” để chỉ chàng trai đang tuổi yêu đương.
Hoa trong thơ Đường gắn liền với trường phái thơ “sơn thủy điền viên” và thơ “lãng mạn”. Thơ “Biên tái” nói về chinh chiến trận mạc nhưng các nhà thơ không quên cảm xúc của mình về hoa ở ngoài biên ải. Cũng chính vì hoa trong thơ Đường mà về sau trong tranh thủy mặc về hoa (hoa) và chim (điểu) rất nổi bật. Tranh lụa, tranh dầu và tranh thủy mặc hình tượng của hoa bao giờ cũng để lại ấn tượng cho người xem. Vì vậy, nhiều người nói rằng: Đọc thơ Đường là thấy hoa và xem hoa bốn mùa là nghĩ đến thơ Đường.
Để minh họa cho từ “hoa” trong thơ Đường, tôi xin giới thiệu bài thơ Đề hoa cúc rất nổi tiếng của Hoàng Sào (? – 884):
Phiên âm: Tấp tập tây phong mãn viên tại/ Nhị hàn hương lãng điệp nan lai/Tha niên ngã nhược vi thang đế/ Báo nghĩ đào hoa nhất khứ khai.
Dịch nghĩa:  Ào ào gió tây trong vườn đầy hoa cúc/ Nhị lạnh hương tàn bướm khó bay qua/ Sang năm nếu ta làm chúa mùa xuân/ Sẽ truyền cho hoa đào nở nơi đây.
PGS. Hồ Sĩ Hiệp

Học sinh lớp 12 trong giờ học ngữ văn. Ảnh: Anh Khôi
Nhiều người nói rằng: Đọc thơ Đường là thấy hoa và xem hoa bốn mùa là nghĩ đến thơ Đường.
 

Bình luận (0)