Nhịp cầu sư phạmChuyện học đường

Từ láy “bất quy tắc”

Tạp Chí Giáo Dục

Trưc thc trng nhiu hc sinh Trung b và Nam b còn viết chưa đúng chính t du hi, du ngã, đc bit là khi s dng t láy, bài viết này gii thiu v “mo” d nh đ khc phc li chính t này.

Muốn viết đúng dấu hỏi, dấu ngã trong từ láy, học sinh phải tích cực đọc sách báo, tiếp xúc với nhiều từ ngữ… (ảnh minh họa). Ảnh: Y.Hoa

T láy là gì?

Trong hệ thống từ vựng tiếng Việt hiện nay có khoảng hơn 30% số từ thuần Việt, trong đó có một bộ phận khá lớn là từ láy. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến những từ láy đôi (gồm 2 tiếng), chứ không lưu ý các loại từ láy ba, láy tư…

Từ láy là một loại từ phức, được tạo thành từ hai tiếng trở lên, trong đó các tiếng lặp lại nhau về âm đầu, vần, hoặc cả âm đầu và vần, và chỉ có một tiếng mang nghĩa xác định, như: cười cợt, gọn gàng, vui vẻ, đẹp đẽ, hoặc cả hai tiếng khi đứng riêng biệt đều không mang nghĩa như: nhí nhảnh, bâng khuâng, dí dỏm, lung tung. Từ láy gồm hai loại chính: Từ láy toàn bộ: lặp lại toàn bộ cả âm và vần giữa các tiếng, đôi khi có biến đổi nhỏ về thanh điệu để tạo sự hài thanh, ví dụ: xa xa, tim tím, tang tảng; từ láy bộ phận (láy âm/láy vần): các tiếng chỉ lặp lại âm đầu hoặc vần như chậm chạp, vội vàng, xa xăm (láy âm đầu), bồi hồi, khang trang, lúng túng (láy vần). Nghĩa của từ láy được hình thành từ nghĩa của tiếng/hình vị gốc, theo hướng mở rộng hay thu hẹp nghĩa, tăng cường hoặc giảm nhẹ nghĩa. Cần phân biệt từ láy với hai loại từ có dạng láy (về hình thức chúng cũng có các tiếng giống nhau về âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và vần) gồm từ đơn đa âm (các tiếng đều không có nghĩa tự thân) như chôm chôm, châu chấu, ra-đa, ti-vi và từ ghép dạng láy (các tiếng đều có nghĩa tự thân) như đi đứng, trai trẻ, tươi tốt; dép da, khăn rằn, khỉ khô.

Phân biệt về phương diện sắc thái nghĩa, từ láy có giá trị biểu cảm, khác với từ đơn đa âm chủ yếu là danh từ, để gọi tên sự vật, hiện tượng chứ không có giá trị biểu cảm.

Quy tc hài thanh trong t láy

Thanh điệu tiếng Việt gồm 6 thanh được ghi bởi 5 dấu, gồm: thanh ngang (không dấu), thanh/dấu huyền (`), thanh/dấu sắc (´), thanh/dấu hỏi ( ̉), thanh/dấu ngã (~) và thanh/dấu nặng (.); có thể chia thành hai nhóm: nhóm thanh cao/thanh bổng (gồm 3 thanh: ngang/không – hỏi – sắc) và nhóm thanh thấp/thanh trầm (gồm 3 thanh: huyền – ngã – nặng). Hầu hết từ láy tiếng Việt bị chi phối bởi quy tắc hài thanh (hài hòa âm thanh) theo bảng sau:

Để ghi nhớ quy tắc hài thanh ở trên và viết đúng chính tả dấu hỏi, dấu ngã trong từ láy, người ta có “mẹo” ghép thành câu lục bát: Em HUYỀN mang NẶNG NGÃ đau, chị KHÔNG SẮC thuốc, HỎI đau chỗ nào. Cụ thể, trong từ láy, tiếng có thanh ngã hầu hết đều đi với tiếng còn lại mang một trong các thanh: huyền, nặng hoặc ngã; tương tự, tiếng có thanh hỏi đại đa số đều đi với tiếng còn lại mang một trong các thanh: ngang, sắc hoặc hỏi.

Quy tắc hài thanh nói trên xác định viết đúng chính tả các từ láy có tiếng mang dấu ngã (thuộc nhóm huyền – nặng – ngã); cụ thể, nếu trong từ láy có một tiếng mang một trong các dấu huyền, nặng, ngã thì tiếng còn lại cũng viết dấu ngã, như:

– Nhóm từ láy huyền – ngã: ầm ã, ầm ĩ, buồn bã, còm cõi, chồm chỗm, dò dẫm, đằng đẵng, đờ đẫn, gần gũi, hờ hững, mùi mẽ, phè phỡn, rành rẽ, rầm rĩ, rầu rĩ, rờ rẫm, sàm sỡ, suồng sã, sừng sững, tầm tã, thờ thẫn, thừa thãi, tròn trĩnh, vòi vĩnh, xoàng xĩnh…; nhóm từ láy ngã – huyền: bão bùng, bẽ bàng, dễ dàng, đẫy đà, hãi hùng, hỗn hào, hững hờ, lỡ làng, lững lờ, mỡ màng, não nùng, nõn nà, ngỡ ngàng, phũ phàng, rõ ràng, sẵn sàng, sỗ sàng, sững sờ, vẫy vùng, vẽ vời, vỗ về, vững vàng…

– Nhóm từ láy nặng – ngã:  bụ bẫm, chặt chẽ, chập chững, dạn dĩ, dọa dẫm, dựa dẫm, đẹp đẽ, hậu hĩ, hậu hĩnh, hợm hĩnh, gạ gẫm, gặp gỡ, giặc giã, gọn ghẽ, hợm hĩnh, khập khễnh, khập khiễng, lạnh lẽo, lạc lõng, lọc lõi, ngạo nghễ, ngặt nghẽo, ngộ nghĩnh, nhạt nhẽo, nhẹ nhõm, quạnh quẽ, rộn rã, rộng rãi, sặc sỡ, tập tễnh, tục tĩu, vặt vãnh…; nhóm từ láy ngã – nặng: cãi cọ, chễm chệ, đĩnh đạc, giãy giụa, gỡ gạc, kẽo kẹt, kĩu kịt, não nuột, nũng nịu, nghễu nghện, nghĩ ngợi, ngỗ nghịch, ngỗ ngược, nhẵn nhụi, nhễ nhại, rũ rượi, thõng thượt, thưỡn thẹo…

– Nhóm từ láy ngã – ngã: lã chã, lãng đãng, lẽo đẽo, lõm bõm, lõng bõng, lỗ chỗ, lững thững, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…

Tương tự, quy tắc hài thanh nói trên cũng xác định viết đúng chính tả các từ láy có dấu hỏi (thuộc nhóm không – sắc – hỏi); cụ thể, nếu trong từ láy có một tiếng không dấu hoặc mang dấu sắc, dấu hỏi thì tiếng còn lại cũng viết dấu hỏi, như:

– Nhóm từ láy ngang – hỏi: da dẻ, dai dẳng, dư dả, đon đả, leo lẻo, nham nhở, sa sả, thong thả, thơ thẩn, vui vẻ, xây xẩm…; nhóm từ láy hỏi – ngang: cỏn con, dửng dưng, mảy may, hả hê, hở hang, lẻ loi, mỏng manh, mở mang, nể nang, rủ rê, viển vông…

– Nhóm từ láy sắc – hỏi: bướng bỉnh, cứng cỏi, gắng gỏi, gắt gỏng, kháu khỉnh, khấp khởi, hắt hủi, hóm hỉnh, hớn hở, láu lỉnh, lắt lẻo, lấp lửng, mát mẻ, phấp phỏng, rác rưởi, tấp tểnh, trắng trẻo, vất vưởng, vớ vẩn, vắng vẻ, xấp xỉ, xó xỉnh, xối xả…; nhóm từ láy hỏi – sắc: gửi gắm, hiểm hóc, nhảm nhí, rẻ rúng, thẳng thắn, tỉnh táo…

– Nhóm từ láy hỏi – hỏi: bủn rủn, đỏng đảnh, đủng đỉnh, hổn hển, lảo đảo, lỏm bỏm, lủng củng, lỏng lẻo, mảnh khảnh, thỏ thẻ, thủ thỉ…

S ít t láy bt quy tc

Tuy nhiên, có một số ít từ láy tiếng Việt ngoại lệ không tuân theo quy tắc hài thanh trên, chúng có dạng đặc biệt, có thể được gọi là từ láy bất quy tắc, gồm các từ sau đây: Nhóm từ láy có tiếng mang dấu huyền, nhưng tiếng còn lại là dấu hỏi: bền bỉ, dòm dỏ, hẳn hòi, hồ hởi, luồn lỏi, mình mẩy, nài nỉ, niềm nở, rẻ rề, sành sỏi, sừng sỏ, xà xẻo, phỉnh phờ…; nhóm từ láy có tiếng mang dấu nặng, nhưng tiếng còn lại là dấu hỏi: chảnh chọe, gọn lỏn, lẳng lặng, nhỏ nhặt, vẻn vẹn, vỏn vẹn, xảnh xẹ…; nhóm từ láy có tiếng không dấu nhưng tiếng còn lại là dấu ngã: khe khẽ, lam lũ, ngoan ngoãn, nông nỗi, se sẽ, riêng rẽ, than vãn, trơ trẽn, ve vãn…; nhóm từ láy có tiếng mang dấu ngã nhưng tiếng còn lại là dấu hỏi: ảo não, bỏ bễ, ủ rũ, vỡ lở…; nhóm từ láy có tiếng mang dấu sắc nhưng tiếng còn lại là dấu ngã: nhão nhoét…

Muốn viết đúng dấu hỏi, dấu ngã các từ láy bất quy tắc trên (số lượng chỉ khoảng vài chục từ) thì học sinh buộc phải học thuộc lòng. Để viết đúng dấu hỏi, dấu ngã trong từ láy, điều tiên quyết là học sinh phải tích cực đọc sách báo, tiếp xúc với nhiều từ ngữ, từ đó các em sẽ nhập tâm các từ có dấu hỏi hay dấu ngã. Đồng thời, học sinh cần chú ý đến quy tắc hài thanh của hai tiếng trong từ láy: dấu hỏi thường đi với dấu hỏi, dấu sắc hoặc không dấu; còn dấu ngã hầu hết đi với dấu ngã, dấu huyền hoặc dấu nặng. Ngoài ra, trong quá trình học tập, sử dụng tiếng Việt, học sinh nên tích cực tham khảo các sách hướng dẫn viết đúng dấu hỏi, dấu ngã, khi gặp từ láy nào có tiếng/chữ mình còn do dự, phân vân không biết nên viết dấu hỏi hay dấu ngã thì nên cẩn trọng tra từ điển tiếng Việt để viết cho chính xác.

Đ Thành Dương

Bình luận (0)