Ngày 29-10, ngày làm việc thứ 7 của kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV. Theo đó, các đại biểu thảo luận tại hội trường về: Kết quả thực hiện dự toán ngân sách Nhà nước năm 2018; dự toán ngân sách Nhà nước và phương án phân bổ ngân sách TƯ năm 2019 và kế hoạch tài chính – ngân sách Nhà nước quốc gia 3 năm 2019-2021; phân bổ nguồn kinh phí còn lại và chi thường xuyên chưa sử dụng hết năm 2017. Đồng thời đánh giá giữa kỳ thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn, tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn 2016-2020.


Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tuyến và Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ giải trình các vấn đề về GD tại kỳ họp Quốc hội. Ảnh: CP
Trước đó, trong 2 ngày làm việc thứ 5 và thứ 6, Quốc hội thảo luận tại hội trường về: Kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2018 và 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm 2016-2020; kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2019. Đánh giá sơ kết 3 năm thực hiện kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế 5 năm giai đoạn 2016-2020; kết quả 3 năm thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi; việc thực hiện Nghị quyết số 100/2015/QH13 phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020. Tại đây, một số bộ trưởng, trong đó có Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến và Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ đã tham gia giải trình về các vấn đề được quan tâm…
Mong giảm người dân đi nước ngoài chữa bệnh
Đó là mong mỏi của ngành y tế được Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến nhấn mạnh tại phiên giải trình một số vấn đề của ngành y tế.
Bộ trưởng Bộ Y tế cho biết, với những nỗ lực toàn ngành, chất lượng khám chữa bệnh (KCB) đã có những tiến bộ khá rõ nét. Theo đánh giá gần đây nhất của UNDP (Chương trình phát triển Liên hiệp quốc) thì chỉ số hài lòng của bệnh nhân sau KCB đạt 76%, một đánh giá khác cho thấy tỷ lệ hài lòng của bệnh nhân nội trú là 80%.
Ngành y tế đã triển khai nhiều biện pháp như chuyển giao kỹ thuật từ bệnh viện (BV) tuyến TƯ xuống tuyến tỉnh; ban hành 83 tiêu chí chất lượng BV theo tiêu chuẩn quốc tế và xếp hạng, đánh giá các BV một cách độc lập, công khai trên truyền thông; xây dựng nhiều BV mới ở TƯ và tuyến tỉnh, huyện, tạo bộ mặt BV khang trang, xanh sạch đẹp, đổi mới phong cách phục vụ trong toàn ngành. Đặc biệt, quyết liệt trong vấn đề nhà vệ sinh BV.
Song song đó là đổi mới cơ chế tài chính, tiến tới tính đúng, tính đủ, đưa cả chi phí lương vào, từ đó giảm chi từ ngân sách, thu hút người tham gia BHXH, tăng cường BV tư nhân… Đồng thời đưa bác sĩ tốt nghiệp khá và giỏi lên các huyện nghèo trong 3 năm, giải quyết rất nhiều nhu cầu KCB tại các huyện này. Cùng với đó, nối mạng gần 100% cơ sở y tế với BHXH; tăng cường y tế cơ sở, ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Về hạn chế, Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến thừa nhận, vẫn có tình trạng quá tải tại các BV TW tuyến cuối. Do nhiều nguyên nhân như người dân không tin tưởng tuyến dưới, chưa đủ bác sĩ, hạ tầng trang thiết bị chưa đầy đủ. Chất lượng KCB vùng sâu vùng xa đã được cải thiện nhưng vẫn có chênh lệch so với vùng thành thị. Nhân lực chưa bảo đảm chất lượng, số lượng. Mô hình đào tạo ngành y tế chất lượng tốt nhưng chưa chuẩn hóa quốc tế.
Về giải pháp, Bộ Y tế đang triển khai các nghị quyết của TƯ, Quốc hội, Chính phủ, thực hiện kiềng 3 chân các giải pháp là: Phát triển y tế cơ sở, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân gắn với y tế gia đình, y tế xã phường, kết hợp công tư, đẩy mạnh xã hội hóa, đây là giải pháp số 1. Kế đến là người dân khi có bệnh vào BV thì phải được chăm sóc chu đáo, toàn diện, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Sắp tới bộ sẽ hình thành hàng loạt cơ sở KCB hiện đại như ở nước ngoài.
“Chúng tôi mong sắp tới không chỉ giảm việc người dân đi nước ngoài chữa bệnh, mà người nước ngoài ở Việt Nam cũng sẽ chữa bệnh ở Việt Nam”, Bộ trưởng Bộ Y tế nói.
Giải pháp thứ ba là về nhân lực, tài chính, cơ sở hạ tầng. Khi thông qua Luật GDĐH, Bộ Y tế đề nghị có cơ chế riêng cho ngành y tế, theo mô hình quốc tế.
Vẫn tiếp tục ổn định kỳ thi THPT quốc gia
Về lĩnh vực GD, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ đã giải trình, làm rõ hơn các vấn đề về quản lý ngành, giải đáp băn khoăn mà đại biểu Quốc hội đề cập.
Nói về việc tổ chức thi, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT cho biết, Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT yêu cầu: “Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp THPT theo hướng giảm áp lực và tốn kém cho xã hội, mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng lực HS, làm cơ sở cho việc tuyển sinh GD nghề nghiệp và GD ĐH”. Thực hiện Nghị quyết 29, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động (Nghị quyết 44), trong đó xác định “Đổi mới việc tổ chức thi, công nhận tốt nghiệp THPT và tuyển sinh CĐ, ĐH tiến tới tổ chức một kỳ thi chung, lấy kết quả để xét công nhận tốt nghiệp và làm căn cứ tuyển sinh đào tạo nghề và ĐH, CĐ… Bộ GD-ĐT đã thực hiện theo đúng chủ trương này và có lộ trình.
Đây là kỳ thi bộ cân nhắc rất nhiều trong các phương án. Công tác chuẩn bị đề thi là vô cùng quan trọng và bộ đã rất cố gắng, sau từng năm đều cải thiện, nâng cao tốt hơn. Công tác bảo mật đề thi bằng công nghệ phần mềm cũng được chú trọng, bên cạnh đó là khâu tổ chức chấm thi, thanh tra và các công tác khác.
Mục tiêu đặt ra là giảm áp lực, đỡ tốn kém cho xã hội thì điều đó đã được chứng minh rõ, nhiều phụ huynh, HS đón nhận phương án này. Tính khách quan, đổi mới qua phương pháp trắc nghiệm cũng đã được thể hiện khá rõ, tỷ lệ quay cóp giảm rất nhiều so với trước kia.
Về độ trung thực, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết, kỳ thi nào cũng có vi phạm. Khi xảy ra hiện tượng tiêu cực trong kỳ thi THPT quốc gia, bộ đã báo cáo Thủ tướng chỉ đạo ngay, cùng với Bộ Công an vào cuộc với quan điểm là “phải làm đến nơi, đến chốn, sai đến đâu xử đến đó”. Đến nay, đã chính thức xử lý 11 cán bộ, giáo viên, 151 HS và tới đây vẫn tiếp tục chỉ đạo xử lý, tinh thần sai là sửa và sửa nghiêm.
Bộ cũng đã rà soát lại toàn bộ quy trình thi và chấm thi. Quy trình đầy đủ nhưng một số khâu, đặc biệt là khâu chuẩn bị câu hỏi chuẩn hóa và ra đề thi phải tốt hơn. Về phần mềm, chưa lường hết khâu công nghệ để mã hóa code đề thi, đây là một trong những sơ hở. Bộ đã họp toàn bộ các giám đốc sở để bàn về vấn đề này và rút kinh nghiệm.
“Qua kỳ thi, chúng tôi cũng rút kinh nghiệm sâu sắc ở chỗ làm sao tăng chất lượng và số lượng câu hỏi thi, tăng tính phân hóa. Đây là mục tiêu chủ yếu, trước hết là để dành cho đánh giá tốt nghiệp THPT, đồng thời là cơ sở đánh giá, điều chỉnh nội dung của chương trình, do vậy duy trì kỳ thi là cần thiết”, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết.
Theo ông Nhạ, năm tới vẫn tiếp tục ổn định kỳ thi này, mục tiêu ra đề thi bám sát trình độ phổ thông, trong đó có phân hóa ở mức độ cần thiết, trên cơ sở đó các trường ĐH, CĐ làm cơ sở xét tuyển đầu vào.
Có chương trình rồi mới viết SGK
Về vấn đề SGK, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết, Nghị quyết 40/2000/NQ-QH10 của Quốc hội khóa X kết luận có một bộ SGK được sử dụng trong cả nước và bàn giao cho Bộ GD-ĐT biên soạn. Như vậy, theo Luật Xuất bản, Bộ GD-ĐT giao việc biên soạn và biên tập, chỉnh lý, in ấn phát hành cho Nhà xuất bản GD.
Trong quá trình thực hiện có điều tốt là một chương trình phổ biến trong toàn quốc, rất nhiều vùng giáo viên khác nhau với trình độ khác nhau cũng ổn định. Tuy nhiên, rất nhiều thầy cô dựa vào SGK và phụ thuộc SGK dẫn đến cứng nhắc, rập khuôn máy móc thì đây là một bất cập.
Tới đây, áp dụng một chương trình, một bộ SGK có thể dẫn đến tình trạng là có một số sách không phải nhà xuất bản nào cũng có hoặc trình độ không đồng đều, giáo viên các vùng miền tham gia giảng dạy cũng khác nhau. Chính vì vậy, trong Nghị quyết 88 của Quốc hội đã giao cho Bộ GD-ĐT trước mắt tổ chức biên soạn một bộ SGK, sau đó khuyến khích các tổ chức, cá nhân có điều kiện để tham gia, mở rộng.
“Ở đây mỗi phương án có điểm thuận và không thuận. Nhưng đợt đổi mới lần này, chúng ta có cách tiếp cận rất căn bản, trước kia đổi mới từ SGK, dựa vào SGK, còn bây giờ thiết kế theo Nghị quyết 88 là dựa vào chương trình, chương trình tổng thể, theo từng môn học. Từ chương trình ấy mới viết SGK. Như vậy SGK là một tài liệu quan trọng để thể hiện phương án, mục tiêu, chương trình, phương pháp. Bên cạnh đó, một số tài liệu khác theo tiêu chuẩn quốc tế và nước nào cũng làm như vậy. Khi thiết kế SGK tạo cơ hội để các thầy cô giáo sáng tạo về mặt phương pháp và linh hoạt vùng miền, vì thiết kế chương trình 80% là khung thống nhất toàn quốc, còn 20% là đặc điểm vùng, miền chuyên biệt, địa phương, tạo sự linh hoạt…”, Bộ trưởng nói.
Nhóm PV

Bình luận (0)