Hội nhậpGiáo dục khắp nơi

Úc: Quá nhiều học sinh bị mất căn bản

Tạp Chí Giáo Dục

Ngày càng có nhiu lo ngi v vic hc sinh Úc b tt li phía sau v môn s hc và đc viết. Trong mt kết qu ca NAPLAN (Chương trình đánh giá quc gia v văn hc và toán hc là mt lot các bài kim tra tp trung vào các k năng cơ bn dành cho hc sinh Úc lp 3, 5, 7 và 9) cho thy 16,2% hc sinh lp 3 đt hoc thp hơn tiêu chun ti thiu toàn quc v môn toán và 12,9% đt hoc thp hơn tiêu chun ti thiu v đc. Đến năm lp 9, t l này tăng lên ln lưt là 20,4% và 25,1%.


Hc sinh có th b mt căn bn do b m hoc chuyn trưng hoc điu kin gia đình không lành mnh. Ảnh: GettyImages

Cuộc điều tra dân số về phát triển sớm năm 2021 cũng cho thấy 22% trẻ em Úc dễ bị tổn thương về mặt phát triển trong năm đầu tiên đi học.

Chính phủ liên bang và tiểu bang hiện đang làm việc về thỏa thuận cải cách trường học quốc gia tiếp theo, liên kết tài trợ cho cải cách trường học và bắt đầu vào năm 2025. Bài tham vấn được phát hành vào tháng trước cho biết: quá nhiều học sinh bị mất căn bản hoặc tụt hậu so với các tiêu chuẩn tối thiểu về đọc viết và tính toán.

Việc này cũng đặt ra câu hỏi, các trường học có thể làm gì để giúp đỡ những người có nguy cơ tụt hậu nhất?

Vì sao hc sinh b mt căn bn?

Học sinh có thể tụt lại phía sau vì nhiều lý do và những lý do này rất phức tạp.

Điều này có thể là do khả năng của học sinh hoặc có lẽ các em có vấn đề hoặc khiếm khuyết về phát triển. Một số học sinh có thể đã bị mất căn bản do bị ốm hoặc chuyển trường. Hoặc học sinh có thể không có một môi trường gia đình ổn định giúp các em học tập tốt, chẳng hạn như thực phẩm và các bữa ăn của học sinh chưa được lành mạnh, tiếp cận với sách vở và đồ dùng học tập không đầy đủ và kể cả việc không ngủ đủ giấc.

Như tài liệu tham vấn, học sinh thổ dân và dân đảo Torres St Eo, học sinh ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, học sinh khuyết tật và học sinh có cha mẹ có trình độ học vấn thấp có cơ hội tiếp cận giáo dục và phát triển thấp hơn các tiêu chuẩn tối thiểu cao gấp ba lần.

Khoảng cách học tập cũng có thể tăng theo thời gian. Những khó khăn ban đầu với việc học có thể nhanh chóng trở nên phức tạp nếu chúng không được giải quyết.

Những học sinh chậm có thể mất động lực học tập vì các em đã mất các khái niệm cơ bản và cảm thấy bài học trở nên khó hơn.

Tuy nhiên, khoảng cách học tập không nhất thiết phải tăng lên. Nghiên cứu của Úc được công bố năm nay cho thấy việc giảng dạy hiệu quả có thể bù đắp cho những khó khăn trong việc học.

Làm thế nào đ các trưng xác đnh hc sinh?

Việc xác định học sinh có thể xảy ra không chính thức và có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Tại trường mầm non, giáo viên có thể nhận thấy khi việc giao tiếp của trẻ không rõ ràng và đề nghị kiểm tra thính giác, hỗ trợ ngôn ngữ hoặc cả hai. Việc đánh giá các kỹ năng nhận thức – chẳng hạn như đọc viết và tính toán thường sẽ diễn ra khi học sinh bắt đầu đi học.

Ở trường mầm non, giáo viên có thể quan sát trẻ em chơi trò chơi có đếm số để xác định học sinh nào gặp khó khăn khi đếm đến năm.

Các đánh giá chính thức hơn có thể liên quan đến việc một học sinh nhỏ tuổi đọc một danh sách ngắn các từ. Chúng cũng có thể bao gồm các mẫu bài tập hoặc bài kiểm tra cá nhân cho học sinh lớn hơn.

Giáo viên cũng có thể xem xét sự tham gia của học sinh vào các hoạt động giáo dục và đi học. Số liệu trước Covid-19 từ năm 2019 cho thấy ít nhất 25% học sinh Úc nghỉ học ít nhất một tháng mỗi năm.

Làm thế nào đ hc sinh có th bt kp?

Làm thế nào một học sinh bắt kịp sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố. Đối với những học sinh khuyết tật, một kế hoạch hòa nhập có thể đảm bảo học sinh có những điều chỉnh và hỗ trợ phù hợp để học tập. Điều này cần phải được cập nhật thường xuyên.

Đối với những học sinh khác, quá trình bắt kịp có thể bắt đầu bằng việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản của các em thông qua việc cung cấp bữa ăn, đồng phục và giao tiếp bằng ngôn ngữ mẹ đẻ.


Theo NAPLAN, khong 16% hc sinh lp 3 ca Úc đt hoc thp hơn tiêu chun ti thiu quc gia v môn toán. Ảnh: GettyImages

Tổng quát hơn, việc bắt kịp học sinh bắt đầu với nguyên tắc nhận biết học sinh và cách học. Giáo viên hướng đến phương pháp tiếp cận dựa trên thế mạnh, coi trọng kiến ​​thức và kỹ năng mà học sinh mang đến trường.

Điều này rút ra từ kiến ​​thức gia đình, sở thích và sở thích học tập để làm cho chương trình giảng dạy hấp dẫn hơn. Ví dụ, nếu một học sinh rất yêu thích thể thao, các bài toán có thể kết hợp dữ liệu từ các trò chơi thể thao.

Học sinh sẽ không học tập hiệu quả nếu các em không cảm thấy được coi trọng, thoải mái và an toàn.

Tr giúp v đc viết và tính toán

Khoảng 20% học sinh cần được giảng dạy và hỗ trợ thêm để có được các kỹ năng cơ bản về ngôn ngữ, đọc viết và tính toán.

Do thiếu giáo viên, đã có sự gia tăng giáo viên giảng dạy ngoài lĩnh vực chuyên môn của họ. Chúng tôi vẫn chưa biết điều này có tác động gì đối với các chương trình can thiệp học tập.

Hu hết hc sinh có th bt kp

Một nghiên cứu năm 2023 của Tổ chức Nghiên cứu giáo dục Úc và Đại học Monash cho thấy khoảng 95% học sinh sẽ có thể đáp ứng các tiêu chuẩn học tập với các chương trình lớp học chất lượng và các biện pháp can thiệp được nghiên cứu hỗ trợ. Nhưng những học sinh có tiền sử khó khăn trong học tập nên được theo dõi cẩn thận vì các em có thể cần hỗ trợ thêm trong tương lai.

Khoảng 5% học sinh sẽ cần can thiệp ở nhiều khía cạnh hơn và các phương pháp giảng dạy khác nhau. Ví dụ, một học sinh khuyết tật về thể chất có thể gặp bất lợi khi được yêu cầu viết bằng tay. Làm việc trên máy tính thay vì kiên trì viết tay có thể giúp đỡ các em nhiều.

Cn mt cách tiếp cn nht quán hơn

Úc có chương trình giảng dạy quốc gia nhưng có sự khác biệt giữa những gì được dạy và cách dạy giữa các bang và vùng lãnh thổ. Cũng có sự khác biệt đáng kể giữa các trường.

Điều này có nghĩa là học sinh chuyển trường có thể bị thiệt thòi. Số liệu từ năm 2016 cho thấy ở New South Wales, 7% học sinh chuyển trường ít nhất một lần trong năm.

Úc cần một cách tiếp cận thống nhất trên toàn quốc đối với chương trình giảng dạy quốc gia. Nhưng các tiêu chuẩn cốt lõi xung quanh phương pháp giảng dạy phải phù hợp và can thiệp hiệu quả.

Cũng cần tăng cường chia sẻ thông tin với phụ huynh và giữa các trường học. Số học sinh toàn quốc có thể được sử dụng để theo dõi số liệu ghi danh và đánh giá cốt lõi của quốc gia.

Một số phụ huynh và nhà trường có thể phản đối ý tưởng này vì lý do quyền riêng tư của học sinh. Cha mẹ có thể muốn con mình có một “khởi đầu mới” nếu chúng chuyển trường.

Chúng tôi thừa nhận những lo ngại này, nhưng việc chia sẻ dữ liệu đánh giá chính sẽ giảm thời gian đánh giá lại học sinh ở trường mới và hỗ trợ việc giảng dạy hiệu quả ngay từ ngày đầu tiên.n

Thy Phm (Theo TheConversation)

 

Bình luận (0)