|
Một tiết học với bảng tương tác
|
Sau một năm thí điểm mô hình “Lớp học tương tác” (LHTT), tập trung chủ yếu ở lớp 1 tại 5 trường tiểu học (Lê Ngọc Hân Q.1, TP.HCM; Nguyễn Thanh Tuyền, Q.3; Trần Bình Trọng, Q.5; Dương Minh Châu, Q.10; Bành Văn Trân, Q.Tân Bình), các trường đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn những khó khăn, hạn chế cần khắc phục.
Tiết học sinh động, HS hứng thú
Phương tiện tạo nên một tiết học tương tác gồm có bảng tương tác, máy tính, máy chiếu, phần mềm soạn giáo án và giảng dạy, bộ giáo án mẫu khối lớp 1, bộ tài nguyên hình ảnh âm thanh video, hệ thống loa, thiết bị kiểm tra trắc nghiệm… Theo đó, giáo viên (GV) là người đứng ra kết hợp các phương tiện đó để truyền tải kiến thức dựa trên sách giáo khoa đến HS và hướng dẫn các em cùng tương tác trực tiếp trên máy. Từ hệ thống hỗ trợ, mọi tư liệu hình ảnh, âm thanh sống động được đưa ra nhanh, sinh động, đẹp mắt, lôi cuốn HS đi sâu vào tiết học, mang lại hiệu quả cao.
Tại Hội thảo giải pháp mô hình LHTT cho trường tiểu học do Sở GD-ĐT TP.HCM vừa tổ chức, đại diện Trường Tiểu học Dương Minh Châu (Q.10) cho biết: “HS được chủ động trải nghiệm kiến thức qua các thao tác thực hành, các bài kiểm tra, từ đó GV biết kiến thức HS nắm được đến đâu, qua đó mới nhận xét được hết tình hình cả lớp”. Cô Lại Thị Minh Xuân (Trường Tiểu học Nguyễn Thanh Tuyền, Q.3) chia sẻ: “Điểm nổi bật của LHTT là các đoạn phim mang tính giáo dục cao. Đặc biệt hệ thống chương trình giáo án lẫn tư liệu âm nhạc rất đa dạng, từ đó GV vận dụng vào đầu tiết dạy, những lúc vui chơi để thư giãn lẫn kết thúc tiết dạy”. Trong khi đó, cô Lưu Thị Lan Hương (Trường Tiểu học Trần Bình Trọng, Q.5) nhận xét: “Ngôn ngữ trong phần mềm rất trong sáng, dễ hiểu. Giáo án dễ dàng chỉnh sửa phù hợp với từng đối tượng, có nhiều chức năng đáp ứng nhu cầu của GV và HS tỏ ra thích thú khi học. Đơn cử với môn tiếng Việt, dạy về từ khóa thông qua hình ảnh, HS dễ dàng nhận ra, còn đối với môn toán, hình thức sửa bài đa dạng, phong phú giúp HS tích cực hơn”.
Không nên quá phụ thuộc
|
“Trong yêu cầu đổi mới dạy học, GV phải hướng đến mọi HS, làm sao để cho tố chất mỗi HS được hoạt động và GV phải kiểm soát được hoạt động của HS, xem mức độ chiếm lĩnh kiến thức của các em như thế nào. Nếu chỉ đánh giá một HS trên bảng tương tác thì chưa phải là hướng đến tất cả HS. Vì thế LHTT chỉ là một giải pháp ứng dụng CNTT, không phải là giải pháp duy nhất. GV phải xác định đây là công cụ để mình ứng dụng, phù hợp với đối tượng HS từng lớp, từng trường, từng vùng”, ông Nguyễn Quang Vinh, Trưởng phòng Giáo dục tiểu học (Sở GD-ĐT TP.HCM) cho biết.
|
Xét về tính khoa học thì LHTT là công cụ hỗ trợ cho việc đánh giá đồng loạt kiến thức của tất cả HS. Vì thế một số trường mong muốn nên đưa môn tiếng Anh vào lớp học này để có thể tận dụng tối đa chức năng vì hiện nay nhiều trường cần giảng dạy tiếng Anh trên bảng tương tác. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, GV đã phát hiện một số hạn chế còn tồn tại như mọi ánh sáng đều tập trung vào một khoảng khiến HS không tránh khỏi lóa mắt; lớp học tối đa 30 HS nhưng phần lớn sĩ số các lớp trên 30 em, thậm chí trên 40 em – em nào cũng muốn lên tương tác khiến GV gặp khó khăn trong giải quyết nhu cầu. Đặc biệt, trong môn tập viết lại không hướng dẫn viết âm cho từ mới, chương trình do phần mềm của máy viết, bắt buộc HS phải nhìn vào máy, theo dõi máy viết mà không thấy được nét chữ thật của GV, không biết các âm phải nằm ở dòng ô ly thứ mấy trong vở.
Cô Lại Thị Minh Xuân cho biết, với HS lớp 1, quan trọng nhất trong quá trình tập viết là cần được hướng dẫn, chỉnh sửa từng nét, như thế mới biết được nét các chữ cần viết ra sao, như thế nào, bắt đầu từ đâu… Từ đó GV tiếp tục sửa sai cho các em nếu phát hiện. Còn ở LHTT, tất cả do phần mềm của máy thực hiện nên mỗi lần như thế, GV muốn dạy tập viết lại phải kéo máy chiếu lên để dùng phấn trắng bảng đen, rất bất tiện. Chưa kể, chữ viết trên bảng tương tác hơi trơn nên không được đẹp. Cô Mai Anh, Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lê Ngọc Hân (Q.1), cho rằng: “Vì đây là lớp học ứng dụng toàn bộ CNTT, hệ thống âm nhạc phong phú nhưng vẫn chưa có nhiều bài hát dân ca, hình ảnh lấy từ sách giáo khoa vào còn nhiều. Vì thế cần bổ sung các bài hát dân ca, hình ảnh tư liệu, màu sắc đa dạng”.
Những hạn chế này đã phần nào “nhắc nhở” GV rằng không phải cứ ứng dụng hoàn toàn CNTT là tốt nhất. Ngược lại, đòi hỏi GV phải linh hoạt sử dụng, không nên quá phụ thuộc. Ông Nguyễn Hoài Chương, Phó giám đốc Sở GD-ĐT TP.HCM, cho biết: “CNTT là công cụ hết sức ưu việt, mặc dù là giai đoạn thí điểm nhưng LHTT đã thể hiện tính tích cực rõ nét. Tuy nhiên, khi sử dụng LHTT đòi hỏi GV hết sức thận trọng nếu không sẽ biến tiết dạy hoàn toàn bằng ngôn ngữ kỹ thuật”.
Theo ông Nguyễn Hoài Chương, một tiết dạy phải đảm bảo tính khoa học sư phạm và hiệu quả, đáp ứng ba yêu cầu khi giảng dạy là: Kiến thức, kỹ năng và thái độ. Nghĩa là trong quá trình dạy học, GV và HS cùng tương tác, như thế GV sẽ dễ dàng hiểu HS, nắm bắt được trình độ kiến thức của từng em. Ngược lại, HS sẽ cảm thấy tiết học không quá xa lạ mà có sự gần gũi.
Bài, ảnh: Ngọc Trinh
| Mô hình LHTT thí điểm được giảng dạy trung bình 180 tiết/lớp (tương đương 3 tiết/ngày) cho các môn toán, tiếng Việt và tự nhiên xã hội. Giáo án được soạn thảo theo chuẩn sách giáo khoa của Bộ GD-ĐT, GV dễ dàng chỉnh sửa theo nhu cầu từng lớp và ý đồ sư phạm của từng GV… |


Bình luận (0)