|
Thơ Haiku của M. Basho. Ảnh: T.G
|
Những tinh hoa của văn học Nhật Bản từ thời cổ đại Nara cho đến nay đã được đưa vào nhà trường phổ thông Việt Nam, góp phần không nhỏ trong việc làm giàu có vốn tri thức văn học, làm phong phú đời sống tâm hồn, tình cảm cho các thế hệ học trò…
Nổi bật với cái đẹp thuần khiết
Tác phẩm văn học đầu tiên của Nhật Bản được phổ biến sớm nhất ở Việt Nam là cuốn Giai nhân kỳ ngộ do cụ Phan Chu Trinh chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của Sài Tử Lang (1858-1922) qua bản dịch Giai nhân chi kỳ ngộ bằng tiếng Hán của Lương Khải Siêu, tiếp đó là tác phẩm Cuộc tái ngộ của Kiyoshi do Nguyễn Giang dịch, xuất bản 1945, Bên thi hài người vợ của Todofumi Ogura (1958)… Tuy nhiên, văn học Nhật Bản chỉ bắt đầu có mặt trong chương trình đào tạo của nhà trường Việt Nam chủ yếu từ hai thập niên cuối thế kỷ XX.
Trong nhà trường phổ thông, văn học Nhật Bản đi vào bậc THCS sớm nhất và khiêm tốn với truyền thuyết pha màu cổ tích Điệu múa của nàng tiên áo lông chim, được học ở lớp 6. Sau đó, văn học Nhật Bản theo bước chân trưởng thành của các em để tiến lên cấp THPT với truyện ngắn nổi tiếng Thủy Nguyệt của Yasunari Kawabata – người đầu tiên của Nhật Bản và là người thứ hai của châu Á giành được giải Nobel văn học. Văn học Nhật Bản nổi bật lên với tinh thần duy mỹ, với cái đẹp thuần khiết và tuyệt đối, được nâng lên thành tín ngưỡng trong tâm hồn và tâm linh người dân xứ sở Phù Tang. Tác phẩm đầu tiên của Nhật Bản mà các em được học là một tuyệt tác chứa đựng triết lý giản dị mà sâu sắc về cái đẹp của dân gian Nhật: Điệu múa của nàng tiên áo lông chim. Câu chuyện kể cổ xưa này có dáng dấp truyện cổ tích thần kỳ, nhưng ở tầng văn hóa sâu hơn, nó là một truyền thuyết giải thích về nét đẹp văn hóa dân gian của người Nhật xưa còn lưu truyền đến ngày nay. Lên lớp 12, các em lại được trao tặng một cái đẹp sâu sắc hơn, triết lý hơn. Tác phẩm nói về mối tương giao của vạn vật, về tâm hồn nhân hậu, đằm thắm, thủy chung, tinh tế của người phụ nữ Nhật Bản qua hình ảnh người thiếu phụ trẻ Kyoko trong tác phẩm Thủy Nguyệt.
Độc đáo thơ Haiku
Hiện nay, văn học Nhật Bản chỉ chính thức có mặt trong chương trình văn học cấp THPT với các bài thơ (Haiku) ở lớp 10. Đến muộn hơn cả nhưng lại có sức lan tỏa kỳ diệu nhất là bài học về thơ Haiku. 8 bài thơ của M. Basho trong sách cơ bản, 3 bài thơ của M. Basho và 3 bài thơ của Y. Buson trong sách nâng cao là sự thách thức với giáo viên cùng học sinh trong những năm đầu thay sách vì quá mới lạ. Nhưng những năm học sau đó, bài học này lại trở thành niềm hứng thú của thầy và trò, đem lại cho họ cái hạnh phúc được dạy và học những bài thơ bé nhỏ mà kỳ diệu, đẹp vào bậc nhất trong nền thi ca thế giới. Từ trong nhà trường, thơ Haiku đã lan rộng ra ngoài khuôn viên học đường, làm nên một phong trào sáng tác thơ Haiku trong toàn xã hội, từ thi sĩ chuyên nghiệp đến những nhà thơ nghiệp dư, trong đó rất đông đảo bạn yêu thơ Haiku là học sinh, sinh viên và nhà giáo. Haiku đã thực sự trở thành thơ ca của mọi người, mọi nhà, thơ ca của vạn nẻo đường đời.
Cho đến nay, đã có 4 cuộc thi thơ Haiku vào các năm 2007, 2009, 2011 và 2013 do Tổng lãnh sự quán Nhật Bản tại TP.HCM, Báo Tuổi trẻ và Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM phối hợp tổ chức. Đặc biệt cuộc thi năm 2013 có một ý nghĩa quan trọng nhân kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật – Việt. Cuộc thi ngày càng thu hút được nhiều bạn đọc tham gia. Không chỉ là chiếc cầu nối liền hai bờ văn hóa Việt – Nhật, thơ Haiku còn nối liền cả hai miền văn hóa Đông – Tây, được yêu mến trên khắp thế giới.
ThS. Hoàng Xuân Vinh (giảng viên Trường ĐHSP Huế)
| So với các nền văn học lớn khác trên thế giới như Hy Lạp, Pháp, Anh, Mỹ, Nga và các nền văn học lớn khác ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ… thì văn học Nhật Bản đến với nhà trường Việt Nam có phần muộn màng và không ồn ào, chỉ lặng lẽ như tính cách người Nhật. Nhưng bù lại, văn học Nhật Bản nhanh chóng chiếm lĩnh trái tim học trò vì vẻ đẹp ít lời mà sâu thẳm của nó. |


Bình luận (0)