Một góc “làng nghĩa địa” |
Nhiều mảnh đời trôi dạt không một mái nhà đã chọn khu nghĩa địa làm chốn nương thân. Cuộc đời của họ là vòng luẩn quẩn nghèo đói, thất học cứ luôn đeo bám.
Phường 15, quận 8, TP.HCM có tổng cộng 6 nghĩa địa lớn, nhỏ nằm dọc theo bến Bình Đông và bến Mễ Cốc. Hơn 20 năm nay, các nghĩa địa này trở thành chốn nương thân của những mảnh đời trôi dạt. Từ một, hai hộ với vài nhân khẩu, dần dà những “làng nghĩa địa” được mọc lên với hàng trăm người sinh sống.
Sống chung với người chết
Từ ngoài bến Bình Đông, tôi hỏi thăm đường vào “làng nghĩa địa”, cậu bé chừng 8 tuổi tình nguyện dắt tôi vào làng. Nơi tôi đến là “làng nghĩa địa” lớn nhất với 30 hộ gia đình thuộc KP.4, P.15, Q.8. Nghĩa địa nằm sâu hun hút trong xóm nhà cấp bốn xập xệ, phải đi qua nhiều con hẻm ngoằn ngoèo, chằng chịt.
Trước mặt tôi là hàng chục căn chòi xiêu vẹo nằm bao quanh những ngôi mộ. Chòi dựng tạm bợ bằng đủ thứ vật liệu nhặt được đâu đó. Ấn tượng mạnh khi vừa đến đây là hình ảnh những đứa trẻ mặt mày đen nhẻm, đến tuổi “biết mắc cỡ” mà cứ nhong nhỏng chạy nhảy trên các phần mộ. Thấy người lạ đến, cô bé có khuôn mặt ưa nhìn bỏ chạy vào chòi đóng sầm cửa lại. Cánh cửa ra vào cũng làm tôi đặc biệt chú ý. Cửa được đóng tạm bằng ván ép, bao ni lông và giấy các tông đã rách lỗ chỗ. Cô bé nấp sau cánh cửa mắt lấm lét nhìn ra trả lời tôi nhát gừng, chẳng một tiếng dạ, thưa. Đó là Thúy, 10 tuổi, theo lời bà Nguyễn Thị Hoa, hàng xóm thì: “Nó theo cha về đây gần 7 năm rồi. Cha nó chạy xe ôm còn mẹ con bé làm cái nghề cũng có chữ “ôm” ở đằng sau. Nghe đâu mẹ nó nghiện ngập, bán nhà để cha con nó ra nghĩa địa ở”.
Bất kể giờ giấc, “làng nghĩa địa” luôn nghi ngút khói hương. Không ai bảo ai, người thức dậy sớm thì có nhiệm vụ thắp nhang ở các mộ phần. Người đi làm về trễ cũng không quên làm việc đó. Bà Nguyễn Thị Hoa phân trần: “Ở nghĩa địa mà không có mùi nhang thì cảm giác lạnh lẽo, hoang vu đến rợn người”.
Căn chòi sang trọng và hoành tráng nhất cũng không quá 6m2. Chỉ có thế, muốn dựng thêm nửa mét nữa cũng không có đất, được như thế không ít hộ đã phải sống “trên đầu trên cổ” người đã khuất. Hộ nào có đông nhân khẩu thì cố gắng nâng thêm cái gác. Đêm lại, người nặng cân được ưu tiên nằm ở dưới, nhẹ cân thì lên trên. Từ chòi này muốn sang chòi kia phải len lỏi giữa các ngôi mộ nhấp nhô, nhiều nơi ngập úng quanh năm vì nước thải đọng lại.
Cư dân “làng nghĩa địa” cho hay, phụ nữ và trẻ em trước đây sinh sống bằng nghề lột bìa giấy các tông, bao xi măng… còn bây giờ thì làm nghề “đụng” (đụng đâu làm đó – PV). Trẻ em hầu hết hành nghề bán vé số, hàng rong, ôsin… Bà Hoa có ba con gái, đứa lớn sắp đến tuổi lấy chồng nhưng vẫn chưa một ngày được đi học. Hai đứa nhỏ thì may mắn hơn chị được học phổ cập vào buổi tối. Khi được hỏi tại sao phải sống ở nghĩa địa, bà Hoa xoa đầu đứa con gái út, miệng mếu máo: “Là dân lao động nhập cư, không nhà cửa đất đai… được ở cùng người chết thế này là quý lắm rồi”.
Nhà không số, biết về đâu?
Ông Nguyễn Văn Sung là cư dân lâu đời nhất ở “làng nghĩa địa”, chỉ tay về phía phần mộ trước mặt, nói: “Tôi về vừa dựng chòi lên được vài ngày là ông này chết”. Trước bia mộ người mất ghi năm 1991, tức đã ngót nghét 20 năm ông Sung gắn cuộc đời mình ở nghĩa địa.
Mỗi người, mỗi gia đình đến “làng nghĩa địa” bằng nhiều “con đường” khác nhau, song kiếp người lang bạt ấy lại có chung một chữ nghèo. Từ cái ngày có bóng dáng họ xuất hiện ở nghĩa địa, cư dân địa phương không ưng bụng. Trong mắt một số người, cư dân “làng nghĩa địa” là thành phần xấu xa, ghê tởm. “Dù cái nghèo đói bủa vây nhưng chưa bao giờ trong làng này xảy ra chuyện xích mích, cãi cọ giữa hàng xóm với nhau. Người đến tuổi lao động hầu hết đều chí thú làm ăn, chưa bao giờ xảy ra mất cắp hay tệ nạn gì trong tổ cả. Lo lắng nhất là tương lai của bọn trẻ, không được học hành đàng hoàng dễ sa vào tệ nạn xã hội”. Bà Nguyễn Thị Hạnh, tổ trưởng tổ 38 nói.
Càng đi sâu vào bên trong “làng nghĩa địa”, mùi ẩm mốc, mùi tử khí và nước thải hắt lên từng đợt theo gió khiến tôi có cảm giác lành lạnh chạy dọc theo xương sống. Hầu hết những phần mộ được chôn từ sau năm 1945. Chỉ vài năm gần đây, lo ngại ô nhiễm môi trường sống nên các ban ngành địa phương mới không cho chôn cất ở đây nữa.
Theo chính quyền địa phương, tổ 38 có hơn 100 hộ nhưng xấp xỉ con số ấy là hộ dân nhập cư. “Làng nghĩa địa” thuộc KP.4 chỉ lác đác vài hộ sống lâu năm được chính quyền cấp số nhà đàng hoàng. Hầu hết các hộ dân sống trong nghĩa địa của phường đều không có nhà vệ sinh. Chính quyền địa phương quan tâm vận động, quyên góp để làm nhà vệ sinh tạm cho bà con nhưng họ một mực không chịu chỉ vì “cái chòi nhỏ như nấm mộ, làm nhà vệ sinh thì ở chỗ nào?”. Cho nên khi cần “giải quyết” thì cả làng lại kéo nhau ra con rạch gần đó. Đây cũng là vấn đề mà chính quyền địa phương rất đau đầu.
Bài, ảnh: Tuy An
Mới đây, tin “dữ” lại đến với bà con “làng nghĩa địa” do làng sắp phải giải tỏa để bàn giao đất cho dự án. Tin này khiến nhiều người đang thiếu ăn lại sinh bệnh. “Nhà không có số, biết đi đâu bây giờ”, ông Ngô Hùng, một trong những cư dân thâm niên ở “làng nghĩa địa” thở dài ngao ngán. |
Bình luận (0)