Tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ X nhiệm kỳ 2015-2020 (từ ngày 13 đến 17-10), các đại biểu tham dự Đại hội đã thảo luận, đóng góp ý kiến dự thảo các văn kiện trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (dự kiến tổ chức vào tháng 2-2016). Theo đó có trên 530 ý kiến góp ý dự thảo Báo cáo chính trị, trong đó tập trung nhiều vào GD-ĐT.
Thu hẹp khoảng cách về chất lượng GD
Nhiều ý kiến đề nghị phân tích đánh giá mức độ “quốc sách” trong quan điểm “GD-ĐT là quốc sách hàng đầu” đã đề ra trong dự thảo báo cáo chính trị; có lộ trình cụ thể, phù hợp, quyết liệt hơn, có chiến lược lâu dài, bền bỉ và hiệu quả hơn đối với nhiệm vụ đổi mới căn bản và toàn diện GD-ĐT. Vì việc thực hiện đổi mới căn bản toàn diện nền GD là chủ trương lớn của Đảng.
Theo đó, cần định hướng tiếp cận với các nền GD tiên tiến trên thế giới, thu hẹp khoảng cách về chất lượng GD tại Việt Nam với các nước bằng cách phải thay đổi quan điểm, nhận thức về GD. Song song đó, cần đánh giá rõ hơn, xác định rõ nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong lĩnh vực GD để có giải pháp khắc phục triệt để; đề ra nội dung, giải pháp cụ thể trong tổ chức thực hiện chủ trương đổi mới căn bản toàn diện nền GD, gắn với việc kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện theo lộ trình từng năm.
Bên cạnh đó cũng có một số ý kiến cho rằng, tình trạng bạo lực học đường có xu hướng tăng, kể cả ở vùng sâu, vùng xa nên cần có sự phối hợp chặt chẽ từ gia đình, nhà trường và xã hội đối với việc GD các em sinh viên, học sinh; cần có giải pháp kiểm soát mạng xã hội. Đặc biệt, phải chú trọng GD đạo đức, lối sống để xây dựng con người Việt Nam hiện đại.
|
Nhiều ý kiến cho rằng để chất lượng GD Việt Nam ngang tầm khu vực thì phải xác định được mức độ “quốc sách” trong quan điểm “GD-ĐT là quốc sách hàng đầu” |
Riêng vấn đề đổi mới nội dung sách giáo khoa, một số ý kiến thừa nhận là đã ảnh hưởng nhiều đến công tác giảng dạy, khả năng tiếp thu của người học. Thậm chí có ý kiến còn cho rằng, đã có sự lãng phí lớn trong xây dựng chương trình GD, sách giáo khoa, cần xem xét có lợi ích nhóm trong lĩnh vực này hay không? Chất lượng sách tham khảo trên thị trường chưa được đảm bảo…
Đào tạo bậc ĐH nên đi vào thực hành nhiều hơn
Đối với bậc ĐH, theo một số đại biểu thì cần tăng cường quản lý chặt chẽ chương trình đào tạo của các trường, nhất là các trường tư thục. Bởi hiện nay sinh viên ra trường thất nghiệp quá nhiều, với những em có việc làm hầu hết đều phải đào tạo lại do không đáp ứng được nhu cầu thực tế, đòi hỏi của nhà tuyển dụng…
Từ đó một số đại biểu đề xuất, chương trình đào tạo các bậc học phải thiết thực, nhẹ nhàng, khơi được tính sáng tạo của người học; nên đi vào thực hành nhiều hơn lý thuyết để đáp ứng nhu cầu của xã hội; GD phải đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí và năng lực cạnh tranh để hội nhập phát triển. Cần có cơ chế đào tạo “gắn với hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và gắn với nhu cầu thị trường lao động”; đẩy mạnh định hướng sớm nghề nghiệp cho học sinh phổ thông. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực các ngành đồng đều, chú ý đội ngũ chuyên gia đầu ngành ngày càng ít, đội ngũ cán bộ trẻ chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là ngành khí tượng thủy văn, vật lý…
Ngoài ra cũng cần phải có cơ chế quản lý thống nhất của cơ quan chủ quản về: GD ĐH, quản lý ĐH, liên thông ĐH; tập trung xây dựng các trường ĐH đạt chuẩn ngang tầm khu vực, giảm tình trạng học sinh Việt Nam đi du học ở nước ngoài; nên đề ra chỉ tiêu số lượng sinh viên đi du học nước ngoài trở về phục vụ Tổ quốc. Mặt khác, nên đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trường ĐH nhưng tránh có sự hiểu sai về việc tự chủ trong từng trường thành “tự trị” ở từng trường; tăng cường công tác quản lý đối với việc tăng tỷ lệ các trường ngoài công lập trong lĩnh vực đào tạo nghề. Cần phải thực sự đổi mới tư duy cũng như cán bộ lãnh đạo kỳ tuyển sinh ĐH tránh nhiều dư luận không tốt; cần quan tâm chế độ, chính sách cho đội ngũ giáo viên.
Hòa Triều (Tổng hợp)
| Một số ý kiến cho rằng, việc xác định vai trò của khoa học – công nghệ là nền tảng của sự phát triển là rất phù hợp, nhưng giải pháp còn nêu chung chung. Cần định hướng, xác định rõ nơi nào là trung tâm của việc ứng dụng khoa học – công nghệ để có định hướng và giải pháp hỗ trợ phù hợp; có cơ chế, chính sách thu hút đầu tư vào khoa học – công nghệ, tạo bước đột phá rõ nét hơn, tránh đầu tư dàn trải; cần phải xác định doanh nghiệp chính là nhân tố quan trọng trong việc ứng dụng khoa học – công nghệ vào thực tiễn và sản xuất – kinh doanh. Đồng thời, cần có cơ chế, chính sách thoáng hơn để động viên các nhà khoa học đẩy mạnh nghiên cứu khoa học; quan tâm và có giải pháp căn cơ để nâng cao hiệu quả vấn đề sở hữu trí tuệ, phải lưu ý đến các công ước, hiệp định mà Việt Nam tham gia; cần bổ sung xây dựng chương trình hỗ trợ khởi nghiệp. |


Bình luận (0)