Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Xây dựng năng lực giao tiếp ngôn ngữ

Tạp Chí Giáo Dục

Giáo dục ngôn ngữ (GDNN) là lĩnh vực GD gồm các môn học vừa mang tính công cụ (ngữ) vừa mang tính đặc thù (văn) nhằm hướng đến mục tiêu phát triển năng lực giao tiếp, thẩm mỹ và phát triển các phẩm chất nhân văn cho học sinh (HS). Vì thế GDNN phải đặc biệt được coi trọng phát triển.

Một tiết dạy học môn ngữ văn lớp 12 tại Trường THPT Nam Kỳ Khởi Nghĩa (TP.HCM). Ảnh: Anh Khôi

Mục tiêu của chương trình phổ thông mới là GD phát triển con người toàn diện về 4 mặt đức, trí, thể, mỹ. Do vậy cùng với việc phát triển các năng lực trên, lĩnh vực GDNN còn góp phần hình thành, phát triển ở HS các phẩm chất chủ yếu như: Sống yêu thương, sống tự chủ và sống trách nhiệm… Đồng thời giúp HS nhận biết được ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng và công cụ tư duy của con người, coi ngôn ngữ là công cụ để học tốt tất cả các môn học, từ đó có ý thức trau dồi ngôn ngữ…

GDNN phát triển đồng thời với GD văn hóa thẩm mỹ. Vì thế, nếu triển khai thực hiện tốt sẽ tạo được hiệu quả GDNN (bao gồm ngữ văn) nhiều mặt, trong đó có mục tiêu phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ.

Trong trường phổ thông, GDNN theo hướng đổi mới được thực hiện ở tất cả các môn học, trong đó tiếng Việt – ngữ văn, ngoại ngữ 1, ngoại ngữ 2 và tiếng dân tộc là những môn học cốt lõi. Tiếng Việt – ngữ văn là môn học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12. Nội dung cốt lõi của môn này bao gồm các mạch kiến thức và kỹ năng cơ bản, thiết yếu về tiếng Việt và văn học; phù hợp với lứa tuổi và các yêu cầu cần đạt về phẩm chất cũng như năng lực của HS ở từng bậc học. Tương tự như các môn học và lĩnh vực khác, tiếng Việt – ngữ văn được thực hiện theo hai giai đoạn: GD cơ bản và GD định hướng nghề nghiệp.

Năng lực giao tiếp là tổng hòa các năng lực đọc, viết, nói, nghe

Theo trục phát triển, có thể xác lập ba bậc/cấp độ tương ứng với ba bậc học (tiểu học, THCS, THPT). Ví dụ, yêu cầu và biểu hiện năng lực đọc thì ở tiểu học phải “đọc trôi chảy và đúng ngữ điệu”; “đọc hiểu bài đọc ngắn về các chủ đề quen thuộc, phù hợp với tâm lí lứa tuổi”; “bước đầu biết phản hồi các văn bản đã học”… Bậc THCS phải “đọc lưu loát và đúng ngữ điệu”; “đọc hiểu nội dung chính và chi tiết các bài đọc có độ dài vừa phải, phù hợp với tâm lí lứa tuổi”; “phản hồi những văn bản đã đọc một cách tương đối hiệu quả”; “bước đầu có ý thức tìm tòi, mở rộng phạm vi đọc”… Bậc THPT, HS “đọc rất lưu loát và đúng ngữ điệu”; “đọc hiểu các văn bản phức tạp trong chương trình học và đời sống, phù hợp với tâm lí lứa tuổi”; “phản hồi một cách tích cực và hiệu quả những nội dung đã đọc”; “luôn có ý thức tìm tòi, mở rộng phạm vi đọc”…

Ở giai đoạn GD cơ bản, môn học này có tên là tiếng Việt ở tiểu học và ngữ văn ở THCS. Kết thúc giai đoạn GD cơ bản, HS có thể sử dụng tiếng Việt thành thạo để giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống hàng ngày và học tập tốt các môn học khác. Các em có thể đọc, viết, nói và nghe các dạng văn bản phổ biến và thiết yếu, phù hợp với trình độ và lứa tuổi; đồng thời thông qua nội dung văn học và tiếng Việt để GD phẩm chất, nhân cách HS. Ở giai đoạn GD định hướng nghề nghiệp, HS được phát triển và nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt trong các hoạt động học tập và thực tiễn đời sống; đồng thời được tiếp cận với một số nội dung học tập có liên quan đến định hướng nghề nghiệp, đáp ứng sở thích và nhu cầu học tập của mỗi người. Môn ngữ văn được tổ chức thành hai phần: Bắt buộc và tự chọn. Phần bắt buộc có tên là Ngữ văn 1, tiếp nối các mạch nội dung đã học từ giai đoạn trước. Phần tự chọn có tên là Ngữ văn 2, gồm các phân môn văn học, luyện đọc và luyện viết. Việc đánh giá kết quả học tập sẽ phải căn cứ vào chuẩn cần đạt của môn học đối với từng lớp học, bậc học; tập trung vào đánh giá năng lực giao tiếp – đọc, viết, nói, nghe – qua đó đánh giá năng lực tư duy. Khuyến khích những suy nghĩ độc lập, sáng tạo và hạn chế kiểm tra khả năng ghi nhớ máy móc. Hai mục tiêu của bộ môn là phát triển năng lực giao tiếp và phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ (qua văn học) được thực hiện đồng thời, dựa trên văn bản/hệ thống văn bản chung. Theo đó, kết quả phát triển năng lực giao tiếp sẽ là điều kiện, cơ sở để phát triển năng lực cảm thụ, thưởng thức văn học – nghệ thuật. Đây có thể xem là bước chuyển quan trọng trong tư duy, chiến lược GD, hứa hẹn những đổi mới quan trọng, sâu sắc trong dạy học ngữ văn.

Ở Việt Nam lâu nay, đọc, viết, nói và nghe là kỹ năng; văn học và tiếng Việt là kiến thức. Trong chương trình mới (dự thảo) tất cả gắn với năng lực. Năng lực phải được tính đến ngay từ khi thiết kế chương trình, soạn SGK; không dạy cho HS kiến thức, kỹ năng tách biệt. Trong chương trình dự thảo, đọc, viết, nói và nghe dĩ nhiên đều quan trọng, song cũng phải thấy rằng năng lực đọc là nền tảng tích lũy kiến thức và kỹ năng, nền tảng hình thành năng lực tự học, nền tảng để viết, nói và nghe. Vậy cần phải đổi mới trước hết việc dạy học đọc (thường gọi là “đọc hiểu”).

Có thể nói phát triển năng lực cảm thụ vẫn là một trong hai mục tiêu của môn ngữ văn, các tri thức về ngữ học được đưa vào chương trình sẽ thiết thực và thú vị hơn, không hề lấn át văn học mà nhằm cung cấp tri thức nền cần và đủ cho việc phát triển năng lực giao tiếp trong đó có năng lực đọc văn, viết văn, cũng như cần thiết cho việc phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Ngữ liệu văn bản được chọn, kể cả văn bản thông tin, phải là văn bản hay, có giá trị cao, tạo hứng thú cho người dạy và người học.

PGS.TS Nguyễn Thành Thi
(Trưởng khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm TP.HCM)

Bình luận (0)