Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Dạy học tích hợp nhiều ứng dụng

Tạp Chí Giáo Dục

Các tiết thực hành thí nghiệm vật lý trước đây, học sinh chủ yếu đứng ngoài quan sát. Tuy nhiên, đối với tiết dạy học liên lớp Dòng điện trong các môi trường do cô Tạ Huỳnh Phương Linh và thầy Lữ Thế Đăng (giáo viên Trường THPT Lê Quý Đôn, TP.HCM) thực hiện lại đi theo một hướng mới.

Cô Tạ Huỳnh Phương Linh đang điều khiển lớp học

Trong tiết dạy học này, học sinh các lớp 11A4, 11A6 và 11A9 đã trở thành chủ thể tích cực trong việc tiếp nhận tri thức và ứng dụng kỹ năng thực hành và thí nghiệm.

Mềm hóa tiết dạy học vật lý

Về kiến thức, cô Phương Linh định hướng, bên cạnh bản chất dòng điện trong kim loại, chất điện phân, chất khí, học sinh hiểu được các ứng dụng của dòng điện trong thực tế thông qua việc nắm vững các phản ứng phụ trong hiện tượng điện phân, đặc biệt là hiện tượng cực dương tan. Về kỹ năng – theo cô Phương Linh – học sinh không chỉ vận dụng các kiến thức đã học để giải thích một số hiện tượng trong đời sống, mà các em còn tiếp thu kiến thức tốt hơn khi ứng dụng CNTT và mạng xã hội để học tập. Đó cũng là lý do trước khi bước vào tiết dạy, giáo viên đã chuẩn bị đầy đủ các thí nghiệm về dòng điện trong các môi trường mà SGK đã “định vị” để biểu diễn cho học sinh xem.

Thay vì kiểm tra miệng kiến thức bài cũ một cách đơn điệu như trước đây thì giáo viên đã làm cho không khí lớp học “nóng dần” khi đưa ra trò chơi game show mang tên Khởi động. Chắp nối từ những tri thức có sẵn các em đã hợp tác cùng nhau tìm ra các từ khóa cơ bản như: Dòng điện, Electron, Ion, Mạ vàng, Điện trở, Không khí. Con đường đi tìm các từ khóa cũng là con đường quay ngược lại với bài học cũ để ôn tập một cách nhẹ nhàng hơn. Nhưng đây chỉ là “khúc dạo đầu” ấn tượng của tiết dạy học mà thôi. Trước khi giáo viên tiến hành thí nghiệm về dòng điện trong chất điện phân, từng nhóm học sinh đã được cho làm thử. Công việc này đòi hỏi các nhóm tập trung chú ý vào bài học hơn, coi đó là trách nhiệm của mình chứ không ai khác. Ngoài ra, các em cũng phải chú ý đến việc mô tả dụng cụ thí nghiệm trước khi giáo viên tiến hành để có câu trả lời đúng. Tương tự, khi giáo viên thực hành các thí nghiệm về dòng điện trong kim loại thì học sinh phải biết theo dõi bằng mắt và ghi nhận bằng tay từng chi tiết. Nhờ câu hỏi của thầy Thế Đăng về khái niệm dòng điện mà các em lại có cơ hội thuộc bài tại lớp mà không cần về nhà coi lại bài. Thông qua bài tập chuẩn bị ở nhà và một bài tập trắc nghiệm nhỏ, cả lớp sẽ tìm hiểu cụ thể các vấn đề trừu tượng có liên quan đến dòng điện. Đây cũng là bước để học sinh làm quen với hình thức thi trắc nghiệm trong kỳ thi THPT quốc gia.

Không theo lối đi trước đó, ở phần Bản chất dòng điện trong kim loại, học sinh được “test” sự tiếp nhận về kim loại trước và sau khi dòng điện xuất hiện bằng phiếu học tập tự điền. Đó cũng là cách quan sát và ghi nhớ của các em về một số hiện tượng “Sự phụ thuộc của điện trở vào nhiệt độ” sau khi xem clip minh họa và thảo luận nhóm. Có thể đây là giây phút thả lỏng nhẹ nhàng sau lúc các em phải căng mắt, căng tai ra để tiếp nhận những tri thức mới và khó hiểu. Kênh hình, kênh chữ đã làm mềm hóa những bài học mang tính khái quát, vĩ mô. Học sinh còn được khai thông và kiểm chứng bài học khi giáo viên yêu cầu thuyết trình về hiện tượng nhiệt điện để bài học sát sườn hơn với tính ứng dụng trong thực tế.

Nhiều phương pháp phối hợp linh động

Thầy Lữ Thế Đăng cho học sinh xem một thí nghiệm trên bảng

Không khí lớp học thêm lôi cuốn khi các “nhà vật lý tương lai” được xem một vở kịch ngắn có liên quan đến dòng điện trong chất điện phân. Ở giai đoạn này, phương pháp làm việc theo nhóm được phát huy bằng các cuộc thảo luận sôi nổi để đưa ra câu trả lời đúng nhất. Cũng giống như các môi trường khác, tính ứng dụng của phản ứng phụ trong chất điện phân đã giúp các em biết cách điều chế kim loại và hóa chất cùng với việc xử lý nước thải hay làm thí nghiệm về đo độ tinh khiết của nước bằng máy điện phân. Phần cuối bài học, phương pháp thảo luận nhóm được đẩy lên cao trào qua yêu cầu giải thích hiện tượng, nhận xét về kim loại trong muối và kim loại cũng như nêu điều kiện để xảy ra hiện tượng dương cực tan.

Với sự linh hoạt của người điều khiển, các phương pháp dạy học như thuyết trình, vấn đáp thông qua tương tác trực tuyến và làm việc theo nhóm luôn “tùy cơ ứng biến” đã dẫn dắt người học tích cực nhẹ nhàng bước vào những trang tri thức đầy hứng khởi để giờ học tiếp thu một cách sâu lắng nhất. Cũng nhờ các phương pháp này, đặc biệt là gom nhóm lại để thảo luận thông qua máy tính bảng và điện thoại, học sinh biết ứng dụng CNTT đúng lúc, đúng chỗ và rèn luyện cho các em sử dụng mạng xã hội một cách hiệu quả, tránh sa đà vào những cuộc chơi vô bổ và đôi khi còn có tác hại xấu cho tuổi trẻ. Đó chính là thành công của giáo viên khi dạy môn vật lý cũng như các môn khoa học tự nhiên khác theo hướng đổi mới phương pháp ở trường phổ thông.

Bài, ảnh: Phan Ngọc Quang

Bình luận (0)