Nghị quyết số 71-NQ/TW ban hành ngày 22-8-2025 của Bộ Chính trị có thể coi là bước ngoặt chiến lược nhằm tạo đột phá trong phát triển GD-ĐT, khẳng định vai trò quốc sách hàng đầu của lĩnh vực này.

Trong bối cảnh Việt Nam hướng tới trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, nghị quyết không chỉ kế thừa các chủ trương trước đây mà còn mang nhiều điểm tiến bộ vượt trội, thể hiện tư duy đổi mới, quyết liệt và phù hợp với thời đại số, hội nhập quốc tế.
Quan điểm chỉ đạo toàn diện và hiện đại
Nghị quyết 71-NQ/TW đã thẳng thắn nhìn nhận, GD-ĐT vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế; cơ hội tiếp cận giáo dục còn thấp so với các nước phát triển; có sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, nhóm đối tượng; đội ngũ nhà giáo, điều kiện cơ sở vật chất, trường lớp ở nhiều nơi không đáp ứng yêu cầu; hệ thống giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp phát triển manh mún, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu; hiện tượng tiêu cực, bệnh hình thức trong giáo dục còn phổ biến; nội dung, chương trình giáo dục còn nhiều bất cập, giáo dục đạo đức, thể chất, thẩm mỹ chưa được quan tâm đúng mức… Từ đó, Nghị quyết 71-NQ/TW đưa ra quan điểm chỉ đạo mang tính đột phá, sâu sắc. GD-ĐT tiếp tục được khẳng định là “quốc sách hàng đầu”, “sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân”, nhưng được cụ thể hóa với việc xây dựng xã hội học tập, khơi dậy phong trào học tập suốt đời, phát huy truyền thống hiếu học. Điểm tiến bộ là nhấn mạnh sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội, đặt người học làm trung tâm và nhà giáo làm động lực quyết định chất lượng. Phương châm “thầy ra thầy, trò ra trò” được đề cao, với yêu cầu kiên quyết chấn chỉnh tiêu cực, tôn vinh danh dự người thầy trong xã hội.
Quan điểm hài hòa giữa tính toàn dân và tinh hoa, dân tộc và toàn cầu là một bước tiến mới. Nghị quyết nhấn mạnh phát triển giáo dục trên nền tảng văn hóa, giá trị truyền thống Việt Nam, đồng thời tiếp thu tinh hoa nhân loại và chuẩn mực quốc tế, hướng tới đào tạo công dân Việt Nam thành công dân toàn cầu. Đột phá lớn nằm ở việc xác định đổi mới tư duy và thể chế làm điểm khởi đầu, tạo nguồn lực và không gian mới cho giáo dục. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, lấy đầu tư công dẫn dắt, thu hút nguồn lực xã hội, đồng thời khẳng định giáo dục công lập là trụ cột, giáo dục ngoài công lập là thành phần quan trọng, đảm bảo cơ hội học tập công bằng cho mọi người.
Mục tiêu cụ thể, dài hạn và khả thi
Nghị quyết 71-NQ/TW đặt ra mục tiêu cụ thể, dài hạn và gắn với các chỉ số đo lường rõ ràng. Đến năm 2030, mục tiêu mở rộng tiếp cận công bằng, nâng chất lượng giáo dục mầm non và phổ thông đạt trình độ tiên tiến khu vực châu Á, với 80% trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia, phổ cập mầm non 3-5 tuổi, 85% người trong độ tuổi hoàn thành THPT, không tỉnh nào dưới 60%. Chỉ số giáo dục đóng góp vào Chỉ số Phát triển con người (HDI) đạt trên 0,8, bất bình đẳng giáo dục dưới 10%. Về nhân lực, tỷ lệ lao động trình độ cao đẳng – đại học đạt 24%, ngành khoa học – kỹ thuật 35%, với 6.000 nghiên cứu sinh và 20.000 học viên chương trình tài năng. Đặc biệt, mục tiêu xếp hạng quốc tế tiến bộ rõ rệt: 8 cơ sở giáo dục đại học top 200 châu Á, 1 top 100 thế giới một số lĩnh vực.
Theo báo cáo Phát triển con người, Chỉ số HDI của Việt Nam năm 2023 đạt 0,766, ở nhóm các quốc gia có mức phát triển con người cao, đứng thứ 93/193 quốc gia và vùng lãnh thổ. Từ năm 1990 đến 2023, chỉ số HDI của Việt Nam đã tăng từ 0,499 lên 0,766, tương đương mức tăng 53,5%, một bước tiến ấn tượng. Đến năm 2035, phổ cập THPT, HDI trên 0,85, Chỉ số Đổi mới sáng tạo (GII) ngang các nước thu nhập trung bình cao. Tầm nhìn 2045 đưa Việt Nam vào top 20 quốc gia giáo dục hàng đầu thế giới, với nhân lực chất lượng cao và nhân tài khoa học – công nghệ làm lợi thế cạnh tranh. Những mục tiêu này không chỉ tham vọng mà còn khả thi, gắn với các chỉ số cụ thể, khắc phục tình trạng chung chung của một số văn kiện trước.
Cần biết rằng, theo Báo cáo GII 2024, Việt Nam được xếp hạng 44/133 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023. Việt Nam tiếp tục có sự cải thiện thứ hạng đầu vào đổi mới sáng tạo tăng 4 bậc so với năm 2023, từ vị trí 57 lên 53; đầu ra đổi mới sáng tạo tăng 4 bậc so với 2023, từ vị trí 40 lên 36.
Nhiệm vụ và giải pháp đột phá
Nghị quyết đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp mang tính đột phá, khắc phục hiệu quả các bất cập. Về nhận thức, yêu cầu đổi mới tư duy từ quản lý hành chính sang kiến tạo phát triển, tăng vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, với bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục công lập (trừ thỏa thuận quốc tế). Thể chế được hoàn thiện với các chính sách đặc thù, vượt trội: phụ cấp giáo viên mầm non – phổ thông tăng lên 70%, 100% vùng khó khăn; tự chủ toàn diện cho đại học và giáo dục nghề nghiệp; ngân sách tối thiểu 20% tổng chi, trong đó đầu tư 5%, đại học 3%…
Về giáo dục toàn diện, nghị quyết tích hợp hệ giá trị con người Việt Nam thời đại mới, chú trọng giáo dục đạo đức, ngăn chặn bạo lực học đường, nâng dinh dưỡng và thể chất. Chuyển đổi số là điểm tiến bộ nổi bật, với chiến lược dữ liệu, nền tảng giáo dục quốc gia ứng dụng AI có kiểm soát, sách giáo khoa thông minh, hệ thống thông tin liên thông với thị trường lao động. Giáo dục mầm non – phổ thông được đầu tư kiên cố hóa, cung cấp sách miễn phí đến 2030, tăng môn STEM, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai. Giáo dục nghề nghiệp cải cách với cấp trung học nghề, liên kết doanh nghiệp, quỹ đào tạo nhân lực. Giáo dục đại học hiện đại hóa, xây dựng 3-5 đại học tinh hoa, khu đô thị công nghệ cao, thu hút 2.000 giảng viên nước ngoài, tăng công bố khoa học 12%/năm.
Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, với ký kết hiệp định, thu hút đầu tư, lan tỏa văn hóa Việt Nam, khuyến khích cơ sở giáo dục Việt Nam mở phân hiệu nước ngoài. Những giải pháp này giải quyết triệt để các vấn đề như thiếu nguồn lực, bất cập thể chế, và thiếu liên kết thực tiễn. Đồng thời, ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia 2026-2035, quỹ học bổng quốc gia, miễn thuế đất cho giáo dục, khuyến khích hợp tác công – tư; thực hiện giáo dục toàn diện đức – trí – thể – mỹ được cụ thể hóa, tích hợp hệ giá trị con người Việt Nam mới, chống bạo lực học đường, nâng dinh dưỡng.
Tổ chức thực hiện chặt chẽ
Khác với một số nghị quyết trước dễ rơi vào tình trạng “treo”, Nghị quyết 71-NQ/TW có cơ chế tổ chức thực hiện chặt chẽ, phân công rõ trách nhiệm. Đảng ủy Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, tỉnh ủy, thành ủy được giao nhiệm vụ cụ thể, từ hoàn thiện pháp luật, xây dựng chương trình hành động, đến giám sát thực hiện từ năm học 2025-2026. Việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia ngay từ 2026 đảm bảo tính khả thi, tránh chậm trễ. Công tác tuyên truyền, quán triệt, tạo sự đồng thuận xã hội, khắc phục tình trạng thiếu quyết tâm chính trị hoặc triển khai nửa vời.
Có thể nói, Nghị quyết 71-NQ/TW thể hiện tầm nhìn chiến lược, mang tính đột phá với các quan điểm hiện đại, mục tiêu cụ thể, giải pháp toàn diện và tổ chức thực hiện chặt chẽ. Những điểm tiến bộ này không chỉ khắc phục hạn chế về nguồn lực, thể chế, chất lượng giáo dục mà còn định hướng xây dựng con người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu kỷ nguyên số và hội nhập quốc tế. Với sự quyết liệt và đồng bộ, nghị quyết sẽ đưa giáo dục Việt Nam vươn tầm khu vực và thế giới, trở thành động lực then chốt cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Nguyễn Minh Hải

Bình luận (0)