Axit béo không no đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe. Tuy nhiên, cơ thể chúng ta lại không thể tự mình tổng hợp được chúng.
Nhiều bằng chứng về khả năng chống ung thư của omega-3
Omega-3 là axit béo không bão hòa chuỗi đa có mặt tự nhiên trong các loại cá, đặc biệt là cá béo như: cá thu, cá bơn, cá mòi, cá ngừ, cá trích, cá hồi… Khi được hấp thu ở mức độ vừa vừa phải, chất béo bão hòa đa giúp giảm nguy cơ xơ vữa động mạch, bảo vệ tim và đặc biệt là khả năng ức chế và tiêu diệt tế bào ung thư.
Những lợi ích của axit béo omega-3 trong cá được cho là nhờ thành phần axit eicosapentaenoic (EPA) và axit docosahexaenoic (DHA).
Các nghiên cứu thử nghiệm gần đây đã chỉ ra rằng, lượng axit béo omega-3 hấp thu trong những năm đầu đời có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm nguy cơ ung thư vú sau này.
Một công trình khoa học trước đó cũng cho thấy, chế độ ăn giàu cá giảm nguy cơ mắc ung thư phổi đến 21%, khả năng này cũng được chỉ rõ là đến từ lượng axit béo omega-3 dồi dào có trong cá.
Chế độ ăn giàu cá giảm nguy cơ mắc ung thư phổi đến 21%.
Nghiên cứu của bác sỹ Mick Brown và các cộng sự tại viện Paterson – thuộc bệnh viện Christie de Manchester (Anh) đi đến kết luận, omega-3 ngăn chặn sự sinh trưởng và phát triển của các tế bào ung thư tuyến tiền liệt.
Ăn nhiều cá béo cũng có thể giúp chúng ta chống lại ung thư miệng và da ở giai đoạn sớm và muộn. Các axit béo ức chế một cách chọn lọc sự tăng trưởng của các tế bào ác tính và tiền ác tính ở liều không ảnh hưởng đến các tế bào bình thường.
Thực tế cho thấy việc các loại cá biển sâu chiếm một tỷ lệ lớn trong mâm cơm của người Nhật Bản, là một trong những nguyên nhân khiến họ có tỷ lệ sống tiếp sau khi được chẩn đoán mắc ung thư ở mức rất cao.
Cụ thể, theo một thống kê được Nhật Bản tuyên bố gần gây, tỷ lệ bệnh nhân ung thư sống thêm 3 năm ở đất nước này lên đến 71,3%; tỷ lệ sống từ 5 năm trở lên của bệnh nhân ung thư đạt mức 65,8%; thậm chí, tỷ lệ sống 10 năm trở lên của bệnh nhân ung thư ở nước này cũng lên đến 57,2%.
Omega-3 ngăn chặn sự sinh trưởng và phát triển của các tế bào ung thư tuyến tiền liệt.
Tại Fiji, đất nước suốt nhiều thập kỷ không có bệnh nhân ung thư, cá biển sâu cũng là thành phần chính trong bữa ăn của người dân. Một điều đặc biệt ở Fiji đó là người dân nơi đây chỉ ăn hải sản tươi sống chưa trải qua quá trình bảo quản hay phơi khô.
Lượng omega-3 được các chuyên gia dinh dưỡng khuyến nghị là 1000 mg EPA và DHA mỗi ngày. Với trẻ em từ 1 đến 8 tuổi nên hấp thu từ 433 đến 600 miligram EPA và DHA. Hàm lượng này có thể đạt được qua chế độ ăn bằng cách kết hợp hai đến ba khẩu phần cá mỗi tuần.
Những lợi ích khác của việc ăn cá
Bên cạnh ung thư, lhoa học đã chứng minh, chế độ ăn nhiều cá còn giúp phòng chống các vấn đề sức khỏe sau:
– Bệnh tim mạch: Một nghiên cứu được công bố bởi Hiệp hội Sinh lý học Mỹ cho thấy rằng, ăn cá béo cũng có thể bảo vệ tim trong những thời điểm căng thẳng về tinh thần.
– Sa sút trí tuệ: Ăn cá mỗi tuần có thể bảo vệ bạn khỏi chứng sa sút trí tuệ. Các loại cá có dầu như cá hồi, cá thu hay cá mòi có thể giúp chống lại bệnh Alzheimer. Các axit béo omega-3 trong cá có khả năng tiêu diệt các protein gây hại cho trí nhớ và khả năng tư duy.
Ăn cá béo cũng có thể bảo vệ tim trong những thời điểm căng thẳng về tinh thần.
– Viêm khớp dạng thấp: Một nghiên cứu cho thấy rằng, hấp thu ít nhất 0.21 gam axit béo omega-3 mỗi ngày làm giảm 52% nguy cơ phát triển viêm khớp dạng thấp.
– Trầm cảm sau sinh: Nghiên cứu chỉ ra rằng, ăn cá có dầu trong khi mang thai có thể làm giảm nguy cơ trầm cảm sau sinh. Do vậy, phụ nữ mang thai được khuyến khích ăn cá 2-3 lần trong một tuần.
NT (theo khoahoc.tv)
Bình luận (0)