Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Cuộc sống đổi thay nhờ “con chữ”

Tạp Chí Giáo Dục

“Thầy giáo” Trần Quốc Tuấn trong giờ lên lớp
Đồn biên phòng 669 (thuộc Bộ đội biên phòng Kon Tum) đóng trên đỉnh Đăk Nhoong thuộc vùng Tây Trường Sơn của huyện biên giới Đăk Glei, tỉnh Kon Tum. Những người lính mang quân hàm xanh ở vùng núi rừng cao nguyên này không chỉ vững tay súng bảo vệ hơn 30km đường biên giới giáp với nước bạn Lào mà còn mở được gần 50 lớp học xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học cho trên 1.000 người dân của xã trong suốt hơn 15 năm qua.
Những lớp học nghĩa tình
Là xã vùng sâu biên giới, Đăk Nhoong có hơn 300 hộ với khoảng 1.500 khẩu, 100% là bà con dân tộc Giẻ Triêng sống rải rác ở bảy làng. Địa hình chia cắt, đất dốc đồi cao, đời sống của bà con rất khó khăn. Đặc biệt, số người mù chữ chiếm hơn 90% dân số. Với quyết tâm mang “ánh sáng văn hóa” đến cho người dân, sau nhiều lần bàn bạc với Đảng bộ xã, năm 1993, Chi bộ Đồn biên phòng 669 đã ra nghị quyết xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học cho người dân xã Đăk Nhoong là nhiệm vụ chính trị cấp bách và chiến lược ở nơi “thâm sơn cùng cốc” này.
Ngày ấy, Trung úy – đảng viên trẻ, Bí thư chi đoàn Trần Quốc Tuấn được chi bộ phân làm Đội trưởng “Đội vận động quần chúng”. Đội này gồm 12 đoàn viên, đảng viên biết tiếng Giẻ Triêng đã tham gia lớp tập huấn sư phạm do Phòng Giáo dục huyện Đăk Glei tổ chức. Họ được giao trọng trách: ban đêm dạy học, ban ngày cùng với bà con tổ chức sản xuất và chăm lo đời sống mọi mặt cho nhân dân ở các làng. Anh Tuấn kể lại: “Lúc được chi bộ giao nhiệm vụ dạy học, tôi lo lắm. Bởi vì bao nhiêu năm nay, trong xã chẳng có người nào học hết lớp 5. Trẻ em học được vài ba tháng là bỏ đi làm rẫy hết. Có ai nói mà bà con nghe đâu”. Anh Tuấn sống ở vùng biên giới này đủ lâu để gắn bó với người Giẻ Triêng và thấy thương dân làng. Theo anh, bà con ở đây rất tốt bụng, yêu quý bộ đội biên phòng nhưng chỉ vì đã bao đời nay quen sống thế rồi nên bây giờ thay đổi rất khó. Với trách nhiệm là đội trưởng, anh Tuấn rủ thêm anh Đặng Trung Trực, Nguyễn Văn Long hàng đêm đến nói chuyện với các già làng và một số người có uy tín để tuyên truyền, vận động bà con đăng ký đi học. Làm đủ cách nhưng số người không ủng hộ vẫn ngày một tăng. Anh Tuấn khuyên dân làng: “Phải có cái chữ thì bà con mới làm cái lúa có nhiều bông, bắp nhiều hạt, mới biết cách đưa điện sáng về làng. Có cái chữ thì sẽ không nghèo, không còn đói cái bụng nữa…”. Để nâng cao tính thuyết phục, mỗi khi có việc phải ra huyện hay về tỉnh, anh Tuấn và đồng đội đều dẫn một số già làng đến thăm các gia đình dân tộc thiểu số để kể cho bà con nghe chuyện học hành và cuộc sống mới của nhiều người dân ở các xã khác như Xơ Đăng, Ba Na…
Thế là bà con dần dần cho con em đăng ký đi học. Học viên nhỏ nhất của những lớp học xóa mù chữ chỉ mới bảy tuổi, người cao tuổi nhất đã 38. Đồn biên phòng 669 cùng với nhân dân xây dựng 5 phòng học, đóng 5 bảng đen, 100 bộ bàn ghế và các nhu cầu khác phục vụ cho việc khai giảng những lớp học đầu tiên.
Cùng vượt qua gian khó
Mở được lớp đã khó, việc duy trì và phát triển sĩ số học viên lại khó khăn gấp bội. Thời kỳ đầu, số học viên bỏ học quá nhiều. Có những lớp chỉ còn từ 7 đến 10 người. Vì thế, những chiến sĩ trong đội dưới sự chỉ huy của Trung úy Trần Quốc Tuấn phải ngày đêm “bám dân, bám lớp”, cùng làm, cùng ăn, cùng ở, cùng học với bà con ở tất cả các buôn làng. Đội phải xin Chỉ huy đồn chi viện thêm một số đoàn viên, đảng viên trẻ để bổ sung vào lực lượng công tác. Khi lên rẫy, lúc dựng nhà, trồng lúa, tỉa bắp; khi chung vui bên ché rượu cần, cán bộ, chiến sĩ trong đội đều hướng vào mục tiêu duy trì việc học hành.
Cả xã có bảy làng, làng xa nhất là Đăk Nớ Pin. Muốn đến nơi phải mất một ngày đường đi bộ. Mỗi chiến sĩ – thầy giáo được giao nhiệm vụ phụ trách “chủ nhiệm” lớp của một làng. Cứ mỗi tháng một lần, Thiếu úy Đặng Trung Trực, phụ trách làng Roóc Mầm – Roóc Mẹt; đảng viên trẻ Nguyễn Văn Minh phụ trách làng xa nhất Đăk Nớ Pin…, từ làng trở về đồn báo cáo diễn biến học tập và tình hình quần chúng nơi mình phụ trách. Có nhiều lúc học sinh bị ốm các anh phải thay nhau cõng vượt rừng, băng suối về đồn điều trị. Lại còn chuyện hai chiến sĩ Nguyễn Văn Long và Nguyễn Quốc Tuấn trên đường đến lớp, khi đi qua rẫy nghe tiếng khóc của trẻ con và tiếng rên của phụ nữ. Các anh vội tìm đến và thấy người mẹ trẻ vừa đẻ xong đứa con trai ở ngoài rừng. Người mẹ đã đuối sức. Hai anh em phải cõng hai mẹ con hơn chục cây số về đồn cứu chữa. “Thế rồi mẹ tròn con vuông”, anh Long cười mà ánh mắt chứa nhiều niềm tự hào, hạnh phúc.
Có những chiến sĩ suốt ba tháng liền, mỗi ngày phải đảm nhận ba lớp: sáng lớp 1, chiều lớp 3, tối lớp xóa mù chữ. Nhưng rồi bằng nhiệt huyết của tuổi trẻ, họ đã vượt qua tất cả. Hơn 10 năm, dưới sự chỉ huy của Trung úy Trần Quốc Tuấn, đội đã mở được 40 lớp với hơn 1.000 người được xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Qua các lần kiểm tra theo chương trình của Bộ GD-ĐT, 100% học viên đạt yêu cầu.
Bài, ảnh: Lê Đình Đanh

Bà con đã hiểu được cái bụng tốt của người lính nên đã coi họ như người trong gia đình. Riêng đội trưởng Trần Quốc Tuấn thì được gọi bằng cái tên thân quý: “Thầy giáo bản làng A Tuấn”. Những học sinh đã bỏ học lần lượt rủ nhau đến lớp theo lời của thầy A Tuấn.

 

Bình luận (0)