Hệ thống cơ sở dữ liệu ngành giáo dục đã cơ bản hoàn thiện với 24,55 triệu hồ sơ kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia. Hơn 10 triệu học bạ và hơn 1,5 triệu văn bằng tốt nghiệp THPT đã được số hóa, đồng bộ về cơ sở dữ liệu tập trung của bộ và tiến hành kết nối đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia, ví điện tử VNeID.

Thông tin trên được Bộ GD-ĐT đưa ra, đồng thời cho biết, năm học 2025-2026 sẽ triển khai đại trà học bạ số toàn quốc ở tất cả các bậc học và văn bằng số từ cấp THPT đến sau ĐH cũng như tiến hành số hóa dữ liệu đối với các văn bằng đã được cấp trước đây.
Người học có thể tra cứu thông tin học bạ, văn bằng trên VNeID
Trong báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm học 2024-2025 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2025-2026, Bộ GD-ĐT cho biết, một trong những kết quả đáng chú ý là năm qua toàn ngành đã đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Theo đó, hệ thống cơ sở dữ liệu ngành giáo dục đã cơ bản hoàn thiện với 24,55 triệu hồ sơ kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia. Hệ thống tuyển sinh trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia đã được hoàn thiện ở mức độ “toàn trình”, cho phép 100% thí sinh đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT và xét tuyển ĐH-CĐ hoàn toàn trực tuyến.
Hơn 10 triệu học bạ cùng hơn 1,5 triệu văn bằng tốt nghiệp THPT đã được số hóa, đồng bộ về cơ sở dữ liệu tập trung của Bộ GD-ĐT và tiến hành kết nối đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia, ví điện tử VNeID. Người học có thể tra cứu được thông tin học bạ và văn bằng trên VNeID. Năm học 2025-2026 sẽ triển khai đại trà học bạ số toàn quốc ở tất cả các bậc học và văn bằng số từ cấp THPT đến sau ĐH, đồng thời tiến hành số hóa dữ liệu đối với các văn bằng đã được cấp trước đây. Bộ GD-ĐT đang tiến hành xây dựng và hoàn thiện thể chế để học bạ số, văn bằng số, chứng chỉ trong hệ thống giáo dục quốc dân thay thế giấy tờ trong các thủ tục hành chính và dịch vụ công trực tuyến.
Cũng trong năm học qua, ngành giáo dục đã tích cực, chủ động triển khai hiệu quả công tác sắp xếp tổ chức bộ máy và thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp. Bộ GD-ĐT đã hoàn thành việc tiếp nhận chức năng quản lý Nhà nước về giáo dục nghề nghiệp từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, sắp xếp cơ quan thanh tra thuộc bộ về Thanh tra Chính phủ. Bộ GD-ĐT đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc. Sau khi tiếp nhận 2 ĐH quốc gia và 17 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đến nay, Bộ GD-ĐT được Thủ tướng Chính phủ giao quản lý 65 đơn vị sự nghiệp công lập.

Mô hình chính quyền địa phương hai cấp được thực hiện kịp thời, đồng bộ với phương châm chuyển từ mô hình quản lý hành chính sang kiến tạo, trao quyền và hỗ trợ phát triển; chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm một cách phù hợp. Bộ GD-ĐT đã và đang chỉ đạo thực hiện đồng bộ 3 nhóm giải pháp. Thứ nhất, công tác pháp chế: Bộ GD-ĐT rà soát, tham mưu ban hành và ban hành theo thẩm quyền 2 nghị định cùng 6 thông tư về phân cấp, phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương hai cấp. Theo đó, Bộ GD-ĐT phân cấp, phân quyền cho địa phương 87/181 nhiệm vụ (đạt tỷ lệ 46,5%).
Thứ hai, công tác kiểm tra: Bộ GD-ĐT đã thành lập 6 đoàn kiểm tra và ban hành nhiều văn bản tháo gỡ khó khăn. Đồng thời, hướng dẫn các địa phương nhân rộng những mô hình hay, cách làm hiệu quả như thành lập hội đồng tư vấn giáo dục cấp xã; các tổ/nhóm cán bộ quản lý cơ sở giáo dục cốt cán để tư vấn, hỗ trợ triển khai hoạt động giáo dục – đào tạo tại cấp xã. Thứ ba, tổ chức tập huấn: Bộ GD-ĐT đã, đang tổ chức các đợt tập huấn; đồng thời chỉ đạo các sở GD-ĐT chủ động tổ chức tập huấn chuyên sâu cho từng đối tượng.
Còn thiếu giáo viên ở nhiều địa phương
Báo cáo của bộ cũng đề cập nhiều kết quả quan trọng khác. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Bộ GD-ĐT cũng chỉ ra việc triển khai thực hiện kế hoạch nhiệm vụ năm học 2024-2025 vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Cụ thể như việc triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 vẫn còn một số khó khăn, bất cập; một số cơ sở giáo dục còn lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường; chưa thực sự chủ động được trong tổ chức dạy học các môn tích hợp, hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp và nội dung giáo dục địa phương; việc kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh tại một số nơi vẫn còn hình thức, chưa sát thực tế.
Chênh lệch điều kiện học tập giữa các nhóm đối tượng và các vùng miền còn lớn. Trẻ em dân tộc thiểu số, học sinh khuyết tật, người học ở vùng sâu, vùng xa gặp nhiều rào cản trong tiếp cận giáo dục do hạn chế về ngôn ngữ, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và điều kiện học tập. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho người học còn chưa thực sự hiệu quả. Tình trạng bạo lực học đường, mất an toàn vệ sinh thực phẩm trong trường học vẫn còn xảy ra ở một số cơ sở giáo dục, gây bức xúc trong dư luận.
Tình trạng thiếu giáo viên còn diễn ra phổ biến tại nhiều địa phương; đặc biệt là giáo viên mầm non, giáo viên dạy các môn mới, môn tích hợp ở THCS và giáo viên tiếng Anh ở vùng khó khăn. Việc tuyển dụng của các địa phương còn chậm, chưa tuyển dụng hết số biên chế được giao. Chất lượng đội ngũ chưa đồng đều giữa các vùng, miền.
Còn tình trạng thiếu trường, lớp, thiếu phòng học bộ môn và thiết bị dạy học tối thiểu ở một số địa phương. Công tác triển khai thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục ĐH, CĐ sư phạm còn chậm; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học còn lạc hậu. Quy mô giáo dục nghề nghiệp còn nhỏ; cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo chưa phù hợp; chất lượng, hiệu quả đào tạo chưa cao, nhất là đào tạo nguồn nhân lực tay nghề cao, ngành nghề mới, kỹ năng tiên tiến. Quy mô đào tạo trình độ ĐH tăng nhưng vẫn tập trung nhiều ở các ngành, lĩnh vực có khả năng xã hội hóa cao (như khối ngành kinh tế, tài chính) trong khi các nhóm ngành khoa học cơ bản, khoa học xã hội không có sức hút đối với người học.
Việt Ngân

Bình luận (0)