Thông qua những câu hát truyền miệng, ca dao phản ánh tâm tư, tình cảm của người bình dân; trong đó nổi bật lên chủ đề tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa với những câu ca dao thoạt nghe tưởng chừng như trái ngược, đối lập nhau. Thử khảo sát một vài ngữ liệu xem có đúng như vậy không.

1. Chẳng thà ăn nửa trái hồng/ Còn hơn ăn cả chùm sung chát lè (a). Chẳng thà ăn cả chùm sung/ Còn hơn ăn nửa trái hồng dở dang (b).
Hồng là tên một loại cây ăn quả cùng họ với thị, tùy theo giống mà quả hồng có thể giòn hoặc mềm, ngọt, dân gian hay dùng chung với cốm trong lễ vật sêu Tết “hồng cốm tốt đôi”; còn sung là loài cây to cùng họ với đa, không có rễ phụ, quả mọc thành chùm trên thân và các cành to, có thể muối để ăn như muối dưa, cà, quả khi còn xanh ăn có vị chát.
Thật ra, hai câu này không mâu thuẫn nhau mà dựa vào hai tiêu chí chọn lựa khác nhau. Câu (1a) dựa trên tiêu chí chất lượng – bản chất bên trong, đề cao vị ngọt, dù ít, chỉ nửa quả hồng, còn hơn là nguyên chùm sung, dẫu nhiều nhưng “chát lè”. Còn câu (1b) thì lại nhấn mạnh về tiêu chí số lượng chứ không quan tâm đến yếu tố chất lượng, dù sung có vị chát, nhưng tác giả lựa chọn “cả chùm” chứ không chọn “nửa quả hồng dở dang”, tuy ngọt nhưng ít và không còn nguyên vẹn.
Như vậy, cả hai câu ca dao đều đúc kết kinh nghiệm về cách nhìn nhận, lựa chọn bạn đời, nhưng quan điểm lựa chọn lại dựa trên hai tiêu chí khác nhau: một bên thì đề cao chất lượng – vẻ đẹp bên trong, kể cả “rổ rá cạp lại”; ngược lại bên kia khẳng định vẻ đẹp bên ngoài và sự toàn vẹn (không dở dang) trong hôn nhân. Hai câu không hề trái ngược về quan điểm mà bổ sung cho nhau về tiêu chí lựa chọn, đã phản ánh sự đa chiều, phong phú trong quan điểm lựa chọn bạn trăm năm của dân gian tự ngàn xưa.
2. Vợ chồng là ruột là rà/ Anh em thì có cửa nhà anh em (a). Anh em là ruột là rà/ Vợ chồng như áo cởi ra là rồi (b).
Vợ chồng là danh từ chỉ mối quan hệ giữa vợ và chồng, về mặt thành một đôi với nhau, còn danh từ anh em ý chính khái quát những người cùng một thế hệ có quan hệ ruột thịt với nhau. Tính từ ruột rà chỉ quan hệ ruột thịt hoặc thân thiết như ruột thịt giữa nhiều người, tương tự như tính từ ruột thịt, chỉ những người có quan hệ cùng máu mủ hoặc thân thiết như những người cùng huyết thống.
Cả hai câu ca dao đều khẳng định tình cảm khăng khít, gắn bó của những người thân trong gia đình, từ đó nhắc nhở con người phải biết yêu thương, vun đắp cho hạnh phúc gia đình của mình. Nhưng quan điểm thể hiện trong hai câu ca dao khác nhau, một câu đề cao tình cảm vợ chồng, câu kia nhấn mạnh tình cảm anh em. Trong đó, câu (2b) có nguồn gốc từ câu ngạn ngữ Trung Hoa “Huynh đệ như thủ túc, thê tử như y phục”, dịch nghĩa: “Anh em như chân tay, vợ con như áo mặc” mà nhân vật Lưu Bị trong Tam Quốc Chí đã dùng để khẳng định tình nghĩa keo sơn gắn bó của ba anh em kết nghĩa đào viên Lưu – Quan – Trương. Ý chung của câu này là muốn khẳng định con người nên biết trọng nghĩa hơn tình, lấy đạo nghĩa làm trọng chứ không nên hành xử hấp tấp chỉ vì tình cảm ích kỷ của bản thân. Câu ca dao hoàn toàn không hề có ý rẻ rúng vợ con, chỉ muốn nhắc nhở người đời hãy biết coi trọng đạo nghĩa, quý trọng tình huynh đệ; tuy nhiên, một người trung chính, trọng đạo nghĩa thì hiển nhiên cũng tự biết bảo bọc, chở che và có trách nhiệm với thê tử của mình.
Còn câu (2a) chỉ ra mối quan hệ anh em lúc nhỏ còn chung trong một nhà thì thân thiết, nhưng khi lớn lên, nên gia thất thì mỗi người lập gia đình riêng, đều phải có trách nhiệm quan tâm, vun đắp hạnh phúc cho gia đình nhỏ của mình, nên không còn thân thiết như lúc còn chung một nhà thuở nhỏ nữa; hai vợ chồng trong gia đình nhỏ ấy sẽ nương tựa, chăm sóc lẫn nhau, cùng nhau đi suốt cuộc đời đến “răng long đầu bạc”, còn anh em nếu có quan tâm nhau thì cũng chỉ ở vai trò hỗ trợ, phụ giúp, chứ không gánh vác trách nhiệm chính yếu như vợ chồng.
Tựu trung lại, hai câu ca dao này không hề trái ngược nhau, mà bổ sung cho nhau trong việc khẳng định tình cảm gia đình ở phương diện gia đình nhỏ và gia đình lớn mà thôi, người đời cần phải ứng xử hài hòa, công bằng và trọn vẹn cả hai.
3. Một ngày tựa mạn thuyền rồng/ Còn hơn suốt kiếp nằm trong thuyền chài (a). Chồng em áo rách em thương/ Chồng người áo gấm xông hương mặc người (b).
Câu (3a) phản ánh quan niệm của người phụ nữ về hôn nhân là chọn chồng có địa vị, sự nghiệp (thuyền rồng), dù chỉ được hưởng hạnh phúc trong một thời gian ngắn ngủi (một ngày), vẫn tốt hơn là sống một cuộc đời nghèo khổ, bần hàn (thuyền chài), dù có ở bên nhau lâu dài (suốt kiếp). Câu ca dao cho thấy một kiểu người phụ nữ thời bấy giờ đề cao giá trị vật chất và địa vị xã hội trong hôn nhân. Họ khao khát một cuộc sống tốt đẹp hơn, ưu tiên lựa chọn những người chồng có danh vị, giàu sang, có thể mang lại cho họ một cuộc sống sung túc, dù có thể chỉ trong thời gian ngắn; vì họ cho rằng một cuộc sống gia đình lâu bền nhưng trong cảnh nghèo khổ, không có danh phận sẽ không mang lại hạnh phúc đích thực cho người phụ nữ.
Còn câu (3b) đề cao tình yêu chân thành, không phụ thuộc vào vật chất của người phụ nữ đối với bạn đời, dù chồng có nghèo khó (áo rách), họ vẫn một lòng yêu thương. Đồng thời, câu ca dao cũng phản ánh một quan niệm của phần lớn phụ nữ đương thời về hạnh phúc gia đình, trong thời điểm mà sự giàu sang phú quý, địa vị xã hội của người nam (áo gấm xông hương) còn được một bộ phận phụ nữ đặt lên hàng đầu. Sự đối lập giữa “áo rách” và “áo gấm xông hương” tạo nên một hình ảnh tương phản, nhấn mạnh sự chân thành trong tình yêu. Câu ca dao ca ngợi phẩm chất cao quý vẻ đẹp đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam: thủy chung, son sắt, biết vượt qua những khó khăn của cuộc sống, không ham hư vinh mà chối nghĩa phụ tình. Họ vui trong cảnh khó khăn mà đầm ấm “một túp lều tranh hai quả tim vàng”, hài lòng, yên phận với gia cảnh tuy còn thiếu thốn mà thuận hòa, hạnh phúc “Râu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”.
Cả hai câu đều nêu lên quan niệm của người phụ nữ về hôn nhân, chọn chồng nghèo khó mà tình nghĩa hay giàu sang, vinh hiển, nêu lên hai quan điểm tuy trái ngược nhưng bổ sung cho nhau, thể hiện sự phân vân của người phụ nữ trước áp lực trong hôn nhân. Sự lựa chọn, xem trọng giữa hai tiêu chí giàu có và nghĩa tình thường phụ thuộc vào hoàn cảnh và giá trị mà người phụ nữ đặt lên hàng đầu trong cuộc sống hôn nhân của mình.
Khác với tục ngữ chủ yếu đúc kết kinh nghiệm, tri thức dân gian, ca dao thiên về phản ánh tâm tư, tình cảm của người bình dân thuở xưa. Trong đó, quan niệm về hôn nhân và gia đình – đôi khi trái ngược – và trải qua thời gian, có câu đến nay có thể không còn phù hợp nữa. Tuy nhiên, chúng vẫn có giá trị to lớn trong việc giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống về tình cảm gia đình, như sự thủy chung, nghĩa tình, đồng cam cộng khổ, yêu thương, gắn bó giữa các thành viên, cung cấp cho chúng ta những bài học quý báu, củng cố thêm niềm tin vào hôn nhân bền vững, về hạnh phúc gia đình trong xã hội hiện đại.
Đỗ Thành Dương

Bình luận (0)