Năm học 1975-1976, tôi tốt nghiệp đại học, chuyên ngành ngữ văn. Sau khi nhận giấy chứng nhận “Hoàn thành chương trình đại học”, tôi được Trường ĐH Sư phạm TP.HCM trao quyết định về Ty Giáo dục tỉnh Tiền Giang. Tại đây, tôi được phân công về Trường PTTH Đốc Binh Kiều (huyện Cai Lậy).

1.Thật ra tôi được Ty Giáo dục tỉnh Tiền Giang phân công về một ngôi trường khác. Tuy nhiên có người xin hoán chuyển và người có trách nhiệm thấy tôi là nam nên động viên về miền đất trù phú với ngôi trường thân yêu tại huyện Cai Lậy.
Hôm đó. Sau khi nhận quyết định, tôi ra bến xe mua vé đến trường. Xuống xe, hỏi thăm rồi đi bộ vào ngôi trường đầu đời trong nghềdạy học của mình dưới ánh nắng của buổi chiều hoàng hôn sắp buông xuống trên phố nhỏ. Ngôi trường vắng vẻ, đứng tần ngần ngắm nghía cả khuôn viên chỉ có cây lim chơ vơ ở góc sân trên nền xi măng xám ngắt. Tôi đến bên cánh cửa, đưa tay sờ vào cây cột và nói thầm: “Ôi, cả tương lai mơ ước thời học trò trung học của mình đây. Sao lặng lẽ, sao buồn buồn, thương thương thế này”. Nhưng trong lòng thì rất hân hoan vì con đường mình đã chọn, đã đi qua 4 năm đại học, đã chất chứa bao mơ ước, tưởng tượng và đam mê cho “đại sự” nghề nghiệp của một con người.
Vào trường. Ngó quanh thấy có phòng còn mở cửa, có một thầy đang ngồi, tôi trình bày mới có quyết định về trường. Thầy nhìn tôi rồi cười vui vẻ tự giới thiệu là hiệu phó, tên Đồng ĐỗĐ?t. Anh??ạt. Anh đọc tờ quyết định rồi nói rất thân tình: “Bạn xuống phòng tập thể ngủ nhe. Sáng mai sẽ gặp anh Ba là hiệu trưởng”. Sau đó, anh dẫn tôi xuống dãy nhà nguyên là lớp học giờ làm nhà trọ tập thể cho giáo viên, kéo bàn ghế học sinh kê lại làm giường ngủ và bàn viết.
Anh phụ tôi khiêng bàn coi như giang sơn riêng trong cái chung của mấy thầy. Còn phòng bên cạnh là của mấy cô. Buổi tối, nghe nói có thầy giáo mới về trường đầu tiên sau ngày 30-4-1975, mấy thầy ở phố chợ ghé chơi coi mặt mũi ra sao.
Thật vui và bất ngờ, tôi gặp lại vị giáo sư, thầy dạy Việt văn lớp 11 Trường Trung học Vĩnh Bình – thầy Nguyễn Văn Quang. Thầy trò gặp nhau, hỏi han đủ chuyện. Sau đó thầy về nhà trọ lấy chiếc chiếu vào phòng tập thể cho tôi trải trên bàn học trò ngủ đêm đầu tiên trong đời đi dạy…
2.Tôi có một tuần để chuẩn bị như mượn sách giáo khoa, sách hướng dẫn giảng dạy, phân phối chương trình và soạn giáo án trước khi lên dạy lớp được phân công chủ nhiệm – lớp 10D. Lúc đó còn phân ban: Ban A là Văn-sử-địa; Ban B là Toán-lý-hóa; Ban D là Lý-hóa-sinh. Tôi hăng hái soạn bài, hỏi thăm thầy chủ nhiệm cũ của lớp vềtừng học sinh.
Tiết dạy đầu tiên, Tổ trưởng Tổ xã hội dự giờ. Tôi rất lo lắng. Tôi dạy bài thơ “Đất quê ta mênh mông” của Dương Hương Ly (Mẹ đào hầm từ lúc còn thơ – Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc… Đất quê ta mênh mông – Lòng mẹ rộng vô cùng…). Cả đời đi học là học sinh, sinh viên của nhà trường cũ; sau 30-4-1975 được các thầy ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào dạy mấy tháng rồi thi ra trường nên kiến thức, hiểu biết về văn học cách mạng của tôi còn rất mới. Dù vậy tôi giảng bài hăng say lắm. Hình tượng bà mẹ nuôi dưỡng, che chở các con là bộ đội thật gan dạ, anh hùng, thật bất khuất, đáng khâm phục. Tôi nói miên man những điều mới cóp nhặt và học tập được. Tôi thấy một tiết thật ngắn. Còn học trò ngồi nghe, chép chép ghi ghi chẳng biết có hiểu gì không.
Cuối buổi dạy, tôi được mời nghe tổ trưởng góp ý. Anh Nguyễn Văn Năm cũng rất tâm lý, khen nhiều ưu điểm như giọng nói to, chữ viết đẹp… Nhưng rồi anh nhẹ nhàng kết luận: “Nói thật, tôi cũng không hiểu bạn dạy nội dung gì, văn học hay bài giảng chính trị. Bạn nên từ từ rút kinh nghiệm. Giáo viên mới ra trường mà. Nhiệt tình thì dư, còn chất lượng nội dung bài dạy lại thiếu”. Anh bắt tay rồi nói thêm một câu: “Phải cố thêm nữa nhe…”.
Thật cảm ơn anh. Lời nhắc nhở động viên đó, tôi còn nhớ mãi.
Công tác chủ nhiệm cũng sai lầm tương tự như bài giảng đầu tiên. Tôi nhiệt tình, năng nổ, quan tâm từng em về mọi mặt. Nhưng thật lòng là tôi thất bại. Tôi rầy la, tôi hỏi han đủ thứ chuyện, học sinh lớp 10 ở miền quê có nhiều em đi học muộn nên cũng nổi giò như thanh niên, kém ông thầy giáo trẻ không nhiều lắm về tuổi tác. Tôi chỉ làm cho các em sợ và xa lánh mà mãi sau này khi các em hiểu được thì thầy trò đã xa nhau mấy chục năm trời.
3.Năm học 1977-1978, tôi được chủ nhiệm lớp 11A2 (Ban A). Lớp 10, các em được thầy Nguyễn Văn Phước chủ nhiệm. Thầy Phước dạy môn Pháp văn, thầy là hình ảnh mẫu mực của một nhà sư phạm – hiền lành, nói năng và phong cách ung dung. Thầy được đồng nghiệp quý mến; học trò kính trọng, yêu thương.
Tiếp nhận lớp của thầy Phước, thầy bàn giao thật chu đáo. Tôi thật cảm phục. Nhưng học trò biết tôi chủ nhiệm thì không thích. Một ông thầy mới ra trường, làm bộ nghiêm trang nhưng lấc cấc, còn háo thắng, háo danh trong phong trào thi đua. Các em nghe nói ông thầy này tiết sinh hoạt chủ nhiệm rầy la học trò ghê lắm.
Các em khóc chia tay thầy chủ nhiệm cũ và lạnh lùng đón thầy chủ nhiệm mới. Các em thụ động, lặng lẽ làm bổn phận học sinh. Tôi rút kinh nghiệm năm học vừa qua và cũng suy nghĩ đến các tình huống sẽ xảy ra ở lớp. Mỗi giờ lên lớp, mỗi tiết sinh hoạt tôi thật sự cùng các em chia sẻ những khó khăn, các tình huống và hoàn cảnh riêng của học sinh cũng như điều kiện học tập. Tôi tìm tòi và đến nhà thăm hỏi học sinh. Tôi cũng biết các em chọn Ban A không phải vì có năng khiếu hay yêu thích văn chương… Từng bước, tôi hiểu các em hơn và học trò dần dần hiểu được những nỗ lực, cố gắng và tấm lòng của tôi đối với các em. Hai năm chủ nhiệm, thầy trò đã hiểu và cùng nhau trau dồi học tập. Lớp 11 – 12A2 là kỷ niệm thật đẹp của tôi khi về Trường PTTH Đốc Binh Kiều công tác.
Năm 1979, tôi viết bài thơ “Viết cho lớp A2” trong đó có đoạn “Ôi! Đốc Binh Kiều và lớp A2/ Hoa hoàng lim đã kết thành trái chín/ Giọt lệ ban đầu đọng thành niềm thương mến/ Hai năm trời, còn giữ mãi trong nhau…” tặng học sinh của mình. Đây là một tấm lòng thật sự yêu thương của thầy giáo trẻ, năng nổ, nhiệt tình nhưng còn vụng về với biết bao thiếu sót.
Với bài viết này, tôi kính nhớ thầy Nguyễn Văn Quang, anh Ba Ẩn đã khuất. Tôi cũng vô cùng nhớ các đồng nghiệp như thầy Ngô Tấn Lực, Đồng Đỗ Đạt, Nguyễn Văn Năm, Hoàng Đình Tuấn, Huỳnh Văn Bé, thầy Phương, thầy Tài…
4.Những năm đầu giải phóng, Trường PTTH Đốc Binh Kiều là ngôi trường duy nhất của huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (cũ) – lúc đó chỉ có 17 lớp. Trường hân hoan được đón Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình ghé thăm nhân dịp bà đến xã Tân Hội là hợp tác xã đầu tiên của đồng bằng sông Cửu Long. Trường Đốc Binh Kiều hiện đã được xây mới, rộng lớn, khang trang hơn…
“Tôi về Đốc Binh Kiều reo vui trong nắng mới” lời nhạc rất đẹp, rất dễ thương, xao động lòng người ở ngôi trường này được người thầy quá cố Vũ Đình Thông viết khi về đây dạy học; khi người sinh viên sư phạm mới tốt nghiệp như tôi đến ngôi trường đầu tiên, lên lớp đứng trên bục giảng, xúc động rưng rưng nghe học sinh gọi tiếng “Thầy”. Thật lòng tôi thấy cao quý biết bao nhiêu…
Lê Ngọc Điệp
(Nguyên Trưởng phòng Giáo dục
Tiểu học – Sở GD-ĐT TP.HCM)

Bình luận (0)